Posted by: minhanhtran80 | 2009/10/14

TUC NGU & CA DAO VIETNAM

TUC NGU & CA DAO VIETNAM
LỜI GIỚI THIỆU

Tục ngữ, ca dao là phần phong phú nhất trong văn học dân gian của dân tộc ta. Đây cũng là phần có giá trị nhất về mặt trí tuệ, tình cảm và nghệ thuật biểu hiện. Do đặc điểm nội dung và hình thức ngắn gọn, có vần, dễ nhớ nên nó luôn luôn được nhân dân vận dụng, truyền miệng qua nhiều thế hệ. Chính vì vậy nó luôn được trau chuốt mà vẫn giữ được cái hồn, cái hình mặc dù có thay đổi một vài từ khi đến “cư trú” ở các địa phương khác nhau.

Tục ngữ là lời ăn tiếng nói của nhân dân đã được đúc kết lại dưới những hình thức tinh giản mang nội dung súc tích. Tục ngữ thiên về biểu hiện trí tuệ của nhân dân trong việc nhận thức thế giới, xã hội và con người. Nói như Gorki: “Tục ngữ diễn đạt rất hoàn hảo toàn bộ kinh nghiệm sống, kinh nghiệm xã hội lịch sử của nhân dân lao động”. (Gorki bàn về văn học, NXB Văn học, H. 1965, tập I, trang 229) Đồng thời tục ngữ cũng biểu hiện thái độ ứng xử và tình cảm của nhân dân đối với những vấn đề của cuộc sống. Tục ngữ thể hiện một phần quan trọng của tư liệu khoa học dân gian và triết lý dân gian. Gắn với lao động, với tự nhiên và những thăng trầm của lịch sử, xã hội, nhân dân đã bộc lộ một cách sâu sắc kinh nghiệm sống, lối sống, tư tưởng đạo đức của mình.

Trong tục ngữ, qua những nhận xét tinh tế về thời tiết; về những kinh nghiệm sản xuất, chăn nuôi, những phê phán sắc sảo: “Nén bạc đâm tọac tờ giấy”, “Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ”; những tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa: “Người là hoa đất”; “Người sống đống vàng”; những đức tính quý báu của nhân dân: “Có công mài sắt có ngày nên kim”; “Đói cho sạch, rách cho thơm”; những chân lý từ ngàn đời: “Năm ngón tay có ngón dài, ngón ngắn”; “Nước chảy đá mòn”; “Tre già măng mọc”… ý nghĩa của tục ngữ trước hết là ở nội dung. Tuy nhiên ý nghĩa của thể loại này còn ở chỗ biểu hiện được cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ dân tộc, ở chỗ chứng minh được rằng ngôn ngữ văn học dân gian là mẫu mực về tính chính xác, tính sinh động và tính hình tượng. Qua tục ngữ có thể thấy cách nhân dân phát huy những ưu điểm của tiếng Việt về mặt ngữ âm, từ vựng, ngữ nghĩa, ngữ pháp để biểu hiện tư tưởng của mình. Thông qua việc sáng tác tục ngữ, nhân dân đã rèn đúc, mài giũa ngôn ngữ dân tộc và làm cho nó ngày càng tinh xảo, chính xác, trong sáng và phong phú hơn.
Mỗi câu tục ngữ đều dùng hình ảnh, sự việc, hiện tượng cụ thể để nói lên ý niệm trừu tượng, dùng cái cá biệt để nói lên cái phổ biến vì vậy ở mỗi câu tục ngữ thường có hai nghĩa: nghĩa đen (nghĩa hẹp) và nghĩa bóng (nghĩa rộng). Cái cụ thể, cá biệt tạo nên nghĩa đen; cái trừu tượng, phổ biến tạo nên nghĩa bóng. Đặc biệt là ở những câu tục ngữ nói về quan niệm, lối sống và đạo đức của nhân dân: “Môi hở răng lạnh”, “Chó cắn áo rách”, “Đục nước béo cò”, “Năng nhặt chặt bị”…

Hình ảnh trong tục ngữ là những hình ảnh từ cuộc sống phong phú nhiều màu, nhiều vẻ được nhân cách hóa rất linh hoạt và sinh động: “Đũa mốc chòi mâm son”, “Khố son bòn khố nâu”… hầu hết các câu tục ngữ đều có vần, nhiều nhất là vần lưng nên nhịp điệu nhanh, mạnh, vững chắc : “Được làm vua, thua làm giặc”, “Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu”, “Chê thằng một chai, lấy thằng hai nậm”, “Gái một con trông mòn con mắt”… còn những câu không vần thường giữ được tính chất nhịp nhàng theo cách cấu tạo cân đối của các vế: “Già néo đứt dây”, “Vỏ quýt dầy có móng tay nhọn”. Cũng có những câu không vần, không đối nhưng vẫn giầu chất nhạc, chất hàm súc của thơ: “Trâu bò húc nhau, ruồi muỗi chết”, “Nằm trong chăn mới biết chăn có rận”, “Dao sắc không gọt được chuôi”…

Nghệ thuật tục ngữ biểu hiện đầy đủ lối suy nghĩ dân gian của dân tộc về giới tự nhiên và đời sống xã hội đồng thời cũng biểu hiện cách nói của dân tộc ta qua nhiều thế hệ, trong tiến trình lịch sử lâu dài. Nếu như tục ngữ thiên về lý trí, đúc kết kinh nghiệm về cuộc sống thì ca dao lại thiên về tình cảm (nội dung trữ tình) và ca dao là một thể loại đã thể hiện được hết cái hay, cái đẹp của ngôn ngữ văn học dân gian. Cũng như tục ngữ hoặc bất cứ thể loại văn học nào khác, ý nghĩa chủ yếu có thể thấy ở ca dao vẫn là về mặt nội dung, có điều là nội dung ấy thường đượm chất thơ. Nếu cho rằng một đặc điểm của thơ là ở chỗ biểu hiện một cách cô đúc nhất tư tưởng và tình cảm thì cũng có thể coi tục ngữ như là một dạng của thơ. Tuy nhiên chất thơ chỉ có thể thấy một cách đầy đủ và toàn diện trong ca dao. sở dĩ như thế một phần cũng chính là vì trong ca dao không những hiện thực được phản ánh một cách cô đúc hơn là trong ngôn ngữ hàng ngày, hơn cả trong văn xuôi mà còn là vì trong ca dao tư tưởng và tình cảm được chắp đôi cánh kỳ diệu của sự tưởng tượng, điều này ít thấy có ở trong tục ngữ.
Có đôi cánh kỳ diệu ấy tâm hồn của nhân dân thể hiện được đầy đủ hơn tất cả sự phong phú và tầm rộng lớn, cao cả của nó. Tất nhiên là tính lãng mạng mà đầu óc tưởng tượng phong phú của nhân dân đã đem lại cho ca dao không hề tách rời và đối lập với tính hiện thực.
Cũng như tục ngữ và các thể loại văn học dân gian khác, ca dao là tấm gương trung thực về cuộc sống muôn màu, muôn vẻ của nhân dân. Đó là cuộc sống cần cù, giản dị và chất phác, đậm đà phong vị dân tộc. Đó là cuộc đấu tranh anh hùng trong dựng nước và giữ nước. Đó là tinh thần lạc quan trong khó khăn, tinh thần tương ái giữa những con người lương thiện. Đó là nhận thức sắc bén về bạn, về thù, về chính nghĩa và phi nghĩa. Tóm lại cũng như ở tục ngữ, qua ca dao có thể thấy rõ hiện thực, tức là “cái vốn có”. Nếu tục ngữ thường dừng lại ở nhận thức “cái vốn có” thì ca dao lại thường tiến thêm một bước nữa rất quan trọng là bộc lộ nguyện vọng của nhân dân đối với việc cải tạo hiện thực.

Ca dao không những chỉ phản ánh “cái đã có” mà còn đề xuất ra “cái nên có”. Ca dao chẳng những muốn giúp cho việc nhận thức cuộc sống mà còn muốn xây dựng lý tưởng về cuộc sống.
Thực ra giữa hai thể loại tục ngữ và ca dao, không phải là không có những trường hợp xâm nhập lẫn nhau. Trong ca dao cũng có xen tục ngữ và cũng có những câu ca dao chỉ có hình thức là ca dao còn nội dung lại là tục ngữ! khi những câu tục ngữ có thêm yếu tố cảm xúc thì lúc đó tục ngữ sẽ tiếp cận với ca dao: “Ai ơi đừng chóng thì chày – Có công mài sắt có ngày nên kim”, ” Chim khôn chưa bắt đã bay – Người khôn ít nói, ít hay trả lời”, “Lời nói chẳng mất tiền mua, Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau” v.v… đó là những câu thường được nhân dân sử dụng như tục ngữ. Đồng thời do nội dung cô đọng, hàm súc, nhiều câu ca dao chủ yếu là những câu ca dao nhận định về con người và việc đời lại được dùng như tục ngữ: “Hơn nhau tấm áo, manh quần – Đến khi cởi trần ai cũng như ai”, “Đem cực mà đổ lên non – Còng lưng mà chạy cực còn theo sau”.

Thế nhưng về cơ bản thì ca dao là một thể loại trữ tình của văn học dân gian. Những tác phẩm trong thể loại này dù nói lên mối quan hệ giữa con người trong lao động, trong sinh hoạt gia đình, xã hội hoặc nói lên những kinh nghiệm sống và hành động… thì bao giờ cũng là bộc lộ thái độ chủ quan của con người đối với những hiện tượng khách quan chứ không phải miêu tả một cách khách quan những hiện tượng, những vấn đề. Cho nên ở ca dao cái tôi trữ tình được nổi lên một cách rõ nét.
Ca dao phản ánh lịch sử, miêu tả khá chi tiết phong tục, tập quán trong sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động nhưng trước hết là bộc lộ tâm hồn dân tộc trong đời sống riêng tư, đời sống gia đình và đời sống xã hội. Từ cuộc sống lao động vất vả của nhân dân đã nảy sinh nhiều câu ca dao thể hiện các hình thức lao động và nghề nghiệp khác nhau.

Những câu ca dao về đất nước và lịch sử, ca ngợi những danh lam thắng cảnh, những đặc sản của các địa phương, truyền thống chống ngoại xâm, chống ách áp bức phong kiến của nhân dân. Phong phú nhất, sâu sắc nhất là mảng ca dao về tình yêu nam nữ. Trai gái gặp gỡ tìm hiểu nhau, thổ lộ tình cảm với nhau trong khi lao động, hội hè, đình đám, vui xuân. Họ có thể thổ lộ với nhau bằng câu “ví”, bằng hình thức giao duyên trong các hình thức đối đáp nam nữ. Nội dung những câu ca dao này phản ánh được mọi biểu hiện sắc thái, cung bậc của tình yêu: những tình cảm thắm thiết trong hoàn cảnh may mắn hạnh phúc với những niềm mơ ước, những nỗi nhớ nhung da diết hoặc cảm xúc nảy sinh từ những rủi ro ngang trái, thất bại, khổ đau với những lời than thở oán trách.

Tình yêu bao giờ cũng gắn liền với lao động, những nét sinh hoạt, những cảnh vật quen thuộc trong đời sống hàng ngày của nhân dân.

Ca dao miền Bắc:
“Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu”

Ca dao của Nam Trung Bộ:
“Đã mang lấy cái thân tằm
Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ
Đêm nằm tơ tưởng tưởng tơ
Chiêm bao thấy bậu, dậy sờ chiếu không”

Và ca dao của Nam Bộ:
“Buổi mai em xách cái thõng (*)
Em xuống dưới ao em bắt con cua
Em bỏ vô trong cái thõng
Hắn kêu cái rỏng, hắn kêu cái rảnh.
Hắn kêu một tiếng chàng ôi!
Chàng đã yên phận tốt đôi
Em nay lẻ bạn, mồ côi một mình”

(*). Cái thõng: một loại chĩnh không lớn lắm, miệng hẹp.
—————————————————–
Đó là quan niệm, đồng thời cũng là nếp tư duy nghệ thuật của nhân dân. Rõ ràng nếp tư duy ấy xuất phát từ cuộc sống lao động, nó chi phối toàn bộ tư tưởng, tình cảm của con người, dù là tình yêu.

Trong xã hội cũ, tình yêu của nhân dân lao động được thể hiện bằng những tình cảm tự nhiên, lành mạnh. Giai cấp thống trị và lễ giáo phong kiến muốn bóp chết những tình cảm hồn nhiên, lành mạnh ấy. Vì vậy trong ca dao, bên cạnh tiếng hát ước mơ về một cuộc sống hạnh phúc, là những tiếng kêu đau khổ, xót xa về những trắc trở trong tình yêu. Tình yêu tan vỡ do nhiều nguyên nhân, có phần chủ quan do trai gái không hợp tính nết nhau hoặc còn ngập ngừng, e ngại… nhưng phần lớn là do những nguyên nhân khách quan, những nguyên nhân do xã hội phong kiến gây ra:
– “Vắn tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng đặng em…”
– “Trách ai tham phú, phụ bần
Tham xa mà bỏ nghĩa gần thuở xưa”
Và cũng dễ hiểu, trong ca dao có nhiều bài phản ánh tinh thần đấu tranh để bảo vệ tình yêu chân chính của những “chàng trai” và những “cô gái”.
Những câu ca dao về chủ đề hôn nhân và gia đình biểu hiện các mối quan hệ đẹp đẽ giữa tình cảm vợ chồng, cha con, mẹ con, anh em họ hàng, bà con làng xóm… ở đây hiện lên hình ảnh người phụ nữ lao động đầy rẫy những chịu đựng ngang trái mà vẫn cao thượng:
“Thân em mười sáu tuổi đầu
Cha mẹ ép gả làm dâu nhà người.
Nói ra sợ chị em cười
Năm ba chuyện thảm, chín mười chuyện cay”
Và còn biết bao nhiêu chuyện sầu thảm như là cảnh mẹ chồng nàng dâu, cảnh “có mới nới cũ”, cảnh góa bụa… cho nên lời than thở của người phụ nữ về số phận mình dưới chế độ phong kiến là âm điệu chủ yếu của mảng ca dao này.
Những bài ca dao mang nội dung đấu tranh chống áp bức của chế độ phong kiến, chống đế quốc xâm lược đã vạch trần những cái xấu xa của bọn phong kiến đế quốc, những tội ác của chúng đối với nhân dân ta và lòng căm thù sâu sắc của nhân dân ta đối với chúng. Cùng với những bài ca dao mang nội dung trên là những bài ca dao tập trung mũi nhọn đấu tranh chống các tệ nạn xã hội và các hiện tượng tiêu cực, cụ thể là đả kích, chế giễu tệ mê tín dị đoan, những hủ tục hôn nhân, những thói hư tật xấu như: cờ bạc, rượu chè, nhác làm siêng ăn, tham lam, ích kỷ… ở đây ca dao đã thể hiện tính chiến đấu rất cao:
– “Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”
– “Của bụt mất một đền mười
Bụt vẫn còn cười bụt chửa lấy cho”

Những bài ca dao nhận định về con người và việc đời như là tổng kết các kinh nghiệm, triết lý, quan niệm đạo đức, cách ứng xử của nhân dân càng thể hiện tính cô đọng hàm súc của tục ngữ. Nhiều bài ngắn, chỉ một cặp lục bát thôi mà vẫn sâu sắc về mặt cách sống và hành động:
“Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm”

Ở trên chúng ta mới đề cập đến nội dung ca dao trong một số chủ đề cơ bản. Thực ra nó còn phong phú hơn nhiều, nhất là khi quan sát những bình diện, những dạng thức biểu hiện ca dao sẽ thấy rõ hơn tính đa dạng, độc đáo của nó.
Với tính cách là thơ theo ý nghĩa đầy đủ của thơ, ca dao đã vận dụng mọi khả năng về ngôn ngữ của dân tộc để biểu hiện một cách chính xác, tinh tế cuộc sống và hơn nữa để biểu hiện một cách sinh động và đầy hình tượng nguyện vọng của nhân dân về cuộc sống ấy. Ở tục ngữ, tư tưởng thường được biểu hiện qua hình thức ngôn ngữ ngắn gọn. Ở ca dao, tư tưởng và tình cảm một mặt được cô đúc dưới hình thức ngôn ngữ vững chắc và mặt khác lại còn được diễn đạt trong sự vận động rất phong phú và đa dạng của ngôn ngữ văn học. Cho nên thông qua việc sáng tác ca dao, nhân dân đã đưa ngôn ngữ văn học đến trình độ nghệ thuật cao, nhiều khi đạt đến tính trong sáng cổ điển. Cảnh vật thiên nhiên, trạng thái xã hội, thể chất và tâm tình con người đã thể hiện qua ca dao với những hình tượng văn học, từ lâu đã trở thành truyền thống và nhiều khi có tính chất mẫu mực về mặt nghệ thuật.

Nói đến ca dao tức là nói đến thơ, về mặt hình thức, trước hết phải nói đến nhịp điệu vì đó là một đặc điểm có tính chất thể loại, một động lực chủ yếu của thơ. Maiacôpxki nói: “Nhịp điệu là sức mạnh cơ bản, năng lực cơ bản của câu thơ không giải thích được nó đâu, chỉ có thể nói về nhịp điệu như nói về từ lực hay điện. Từ lực hay điện – đó là những dạng của năng lượng (*)
———————————————————————–
(*) Xem: Dẫn luận nghiên cứu văn học – Tuyển tập NXB Đại học Maxcơva 1979. Trang 245.

Như vậy nhịp điệu giữ một vai trò hết sức quan trọng. Nó luôn có tác dụng nâng đỡ cảm xúc, làm tăng thêm sức biểu đạt của thơ.
Ca dao ngắt nhịp hai là phổ biến, nhưng nhiều trường hợp ca dao ngắt nhịp rất sáng tạo. Như để làm bật lên cái quyết tâm vượt lên mọi khó khăn, trục trặc của những con người đi theo tiếng gọi của tình yêu, ca dao đã bỏ nhịp hai:
– “Yêu nhau/ tam tứ núi/ cũng trèo/
Thất bát sông/ cũng lội/ tam thập lục đèo/ cũng qua/”
– “Thương nhau chẳng quản gì hơn/
Phá Tam Giang/ anh cũng lội/ núi Mẫu Sơn/ anh cũng trèo/”

Câu ca dao dưới đây nhịp điệu không biểu hiện lòng quyết tâm vượt khó của những người muốn được xích lại gần nhau, được chung sống cùng nhau mà khẳng định một sự ly khai dứt khoát:
“Chồng gì anh/ vợ gì tôi
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây!”
Những câu ca dao trên, nhịp điệu biến hóa thích hợp với việc biểu hiện những tâm trạng khác nhau. Điều này ta thấy rõ ở những bài ca dao biến thể – ca dao ở Trung Bộ và Nam Bộ, một số gắn chặt với dân ca hay nói cách khác, nó thoát thai từ những điệu hò, điệu lý… như: hò khoan, hò giã gạo, hò mái nhì, hò mái đẩy ở Bình – Trị – Thiên, hò Đồng Tháp ở Nam Bộ và lý hoài xuân, lý bơ thờ, lý trách ai, lý dệt vải, lý đan lờ, lý lên núi, lý cây chanh, lý cây cau, lý con ngựa, lý con tằm…(Nam Trung Bộ), lý xe tơ, lý kéo chài, lý con sáo, lý chuồn chuồn, lý con cua… (Nam Bộ). Vì vậy nhịp điệu rất phong phú và sinh động.

Ta hãy nghe một bài ca dao ở Bình – Trị – Thiên:

“Sóng sầm sịch lưng chừng ngoài biển bắc
Giọt mưa tình rỉ rắc chốn hàng hiên
Em muốn làm lơ đi mà ngủ, ngủ cũng không yên
Sợ mưa già nước ngập, biết tựa con thuyền vào đâu?”

Ở đây nhịp điệu đã tạo nên cảm giác như gần, như xa… như khoan, như nhặt của một tâm trạng lo âu, thắc thỏm.
Ca dao Nam Trung Bộ:

“Hòn đá cheo leo
Con trâu trèo con trâu trượt
Con ngựa trèo con ngựa đổ
Anh thương em lao khổ
Tận cổ chí kim
Anh thương em khó kiếm, khôn tìm
Cây kim luồn qua sợi chỉ
Sự bất đắc dĩ phu phải lìa thê
Nên hay không nên, anh ở em về
Đừng giao, đừng kết, đừng thề mà vương”

Đó là nhịp điệu của con đường tình duyên đi qua nhiều ngoắt ngoéo, vấp váp. Nhìn chung ca dao ở Trung Bộ và Nam Bộ có nhiều bài nhịp điệu khấp khểnh ít êm xuôi như ca dao Bắc Bộ.

Với ca dao, chúng ta còn có thể nêu lên nhiều cái độc đáo khác nữa của thể loại này như: cách xưng hô, đối đáp, hình tượng, không gian, thời gian, tính ước lệ… cùng với tục ngữ, ca dao được quần chúng nhân dân sáng tạo qua nhiều thế hệ tác giả, qua nhiều thời đại đã có được vẻ đẹp nhiều mặt bền vững như ngày nay.

Mỗi câu tục ngữ, mỗi câu ca dao ra đời trong môi trường, hoàn cảnh nhất định và bao giờ cũng gắn liền với giới tự nhiên: cây cỏ, loài vật, dòng sông, con đò, bến nước, đường làng… cho nên nghiên cứu tục ngữ, ca dao cũng như nghiên cứu văn học dân gian nói chung, tốt nhất, lý tưởng nhất là trở về với dạng nguyên hợp của nó. Ở đây đã gọt bớt, đã gọn nhẹ đi nhiều. Thế nhưng đối với người đọc chúng ta nhất là đối với các nhà thơ đến với tục ngữ, ca dao sẽ khám phá, học tập được rất nhiều ở cái kho báu đa dạng này. Có nhiều bài thơ hay là những tác phẩm mà các tác giả đã vận dụng một cách sáng tạo ngôn ngữ và các phương pháp nghệ thuật của tục ngữ, ca dao.

Tuy gọi là Tục ngữ và ca dao Việt Nam nhưng tuyển tập này chỉ mới giới thiệu tục ngữ và ca dao của người kinh – là một dân tộc đông người nhất ở nước ta. Việc biên soạn thơ ca, dân gian của các dân tộc anh em ít người thì thuộc về một công trình nghiên cứu khác.

Tuyển tập này chỉ gồm tục ngữ, ca dao tức là những thể loại trong đó cùng với việc tìm hiểu về mặt ngôn ngữ văn học dân gian.

Tục ngữ và ca dao lưu hành qua các địa phương khác nhau đã từng có những sự biến đổi ở mặt này hay mặt khác nhưng chúng tôi chỉ chọn lọc những tác phẩm phổ biến nhất, có hình thức nghệ thuật và ngôn ngữ ổn định để giới thiệu.
Tuyển tập này chắc chắn là không thể nào tránh khỏi những thiếu sót. Do đó rất mong được các bạn đọc góp ý để chúng tôi rút kinh nghiệm, sửa chữa.

MÃ GIANG LÂN

Phần thứ nhất: TỤC NGỮ

I – QUAN NIỆM VỀ GIỚI TỰ NHIÊN

1. Gió thổi là chổi trời.
2. Nước chảy đá mòn.
3. Trăm rác lấy nác làm sạch.
4. Rắn già rắn lột, người già người chột.
5. Qua giêng hết năm, qua rằm hết tháng.
6. Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng.
7. Ngày tháng mười chưa cười đã tối
8. Đông chết se, hè chết lụt.
9. Đầu năm sương muối, cuối năm gió nồm
10. Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba rét nàng Bân.
11. Tháng ba bà già chết rét.
12. Tháng bảy mưa gãy cành tràm.
13. Tháng tám nắng rám trái bưởi.
14. Tháng bảy ngâu ra, mồng ba ngâu vào.
15. Sáng mưa, trưa tạnh.
16. Mưa chẳng qua ngọ, gió chẳng qua mùi.
17. Sáng bể chớ mừng, tối rừng chớ lo.
18. Mây xanh thì nắng, mây trắng thì mưa.
19. Mống đông vồng tây, chẳng mưa dây cũng bão giật.
20. Ráng mỡ gà thì gió, ráng mỡ chó thì mưa.
21. Gió bấc hiu hiu sếu kêu thì rét.
22. Chớp đông nháy nháy, gà gáy thì mưa.
23. Trăng quầng thì hạn, trăng tán thì mưa.
24. Mau sao thì nắng, vắng sao thì mưa.
25. Trời đang nắng, cỏ gà trắng thì mưa.
26. Tháng bảy kiến đàn, đại ngàn hồng thủy.
27. Tháng bảy heo may, chuồn chuồn bay thì bão.
28. Én bay thấp mưa ngập cầu ao.
29. Én bay cao mưa rào lại tạnh.
30. Quạ tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa.
1. Ếch kêu uôm uôm, ao chuôm đầy nước
2. Nắng chóng trưa, mưa chóng tối.
3. Mưa tháng ba hoa đất.
4. Mưa tháng tư hư đất.
5. Tấc đất, tấc vàng.
6. Năm trước được cau, năm sau được lúa.
7. Được mùa lúa, úa mùa cau
Được mùa cau, đau mùa lúa
8. Được mùa quéo, héo mùa chiêm.
9. Tỏ trăng mười bốn được tằm.
Tỏ trăng hôm rằm thì được lúa chiêm.
10. Trăng mờ tốt lúa nỏ, trăng tỏ tốt lúa sâu.
1. Thiếu tháng hai mất cà, thiếu tháng ba mất đỗ.
2. Thiếu tháng tám mất hoa ngư.
Thiếu tháng tư mất hoa cốc.
3. Mồng tám tháng tám không mưa
Bỏ cả cầy bừa mà nhổ lúa đi.
4. Tháng chín mưa rươi, tháng mười mưa mạ.
5. Gió đông là chồng lúa chiêm
Gió bấc là duyên lúa mùa.
6. Chiêm xấp tới, mùa đợi nhau.
7. Lúa chiêm đứng nép đầu bờ
Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên.
8. Đói thì ăn ráy, ăn khoai
Chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng.
9. Ăn kỹ no lâu, cày sâu tốt lúa.
10. Mạ chiêm ba tháng không già
Mạ mùa tháng rưỡi ắt là không non.
1. Lúa mùa thì cấy cho sâu
Lúa chiêm thì gẩy cành dâu mới vừa.
2. Một lượt cỏ thêm giỏ thóc.
3. Nhất nước, nhì phân, tam cần tứ giống.
4. Hòn đất nỏ bằng giỏ phân.
5. Người đẹp về lụa, lúa tốt về phân.
6. Tốt quá hóa lốp.
7. Xanh nhà hơn già đồng.
8. Ruộng cao trồng mầu, ruộng sâu cấy chiêm.
9. Trồng khoai đất lạ, gieo mạ đất quen.
10. Bốc mả kiêng ngày trùng tang
Trồng khoai lang kiêng ngày gió bấc.
1. Chuối sau, cau trước.
2. Nắng tốt dưa, mưa tốt lúa.
3. Nắng sớm thì đi trồng cà
Mưa sớm ở nhà phơi thóc.
4. Gió heo may mía bay lên ngọn.
5. Đom đóm bay ra, trồng cà tra đỗ
Tua rua bằng mặt cất bát cơm chăm.
6. Ba tháng trông cây không bằng một ngày trông quả.
7. Chắc rễ bền cây.
8. Cây chạm lá, cá chạm vây.
9. Tháng giêng trồng trúc, tháng lục trồng tiêu.
Nắng đan đó, mưa gió đan gầu.
10. Con trâu là đầu cơ nghiệp.
1. Một tiền gà, ba tiền thóc.
2. Chuồng gà hướng đông cái lông chẳng còn.
3. Làm ruộng ba năm không bằng chăm tằm một lứa.
4. Làm ruộng ăn cơm nằm, chăm tằm ăn cơm đứng.
5. Tằm đói một bữa bằng người đói nửa năm.
6. Một nong tằm là năm nong kén
Một nong kén là chín nén tơ.
7. Tháng ba dâu trốn, tháng bốn dâu về.
8. Ao sâu tốt cá
Nước cả cá to.
9. Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn ruốc.

II – ĐỜI SỐNG VẬT CHẤT

1. Người sống về gạo, cá bạo về nước.
2. Có thực mới vực được đạo.
3. Mẻ không ăn cũng chết.
4. Một miếng khi đói bằng một gói khi no.
5. Ăn một miếng, tiếng một đời.
6. Ghen vợ ghen chồng không bằng ghen ăn.
7. Đói thì thèm thịt thèm xôi
Hễ no cơm tẻ thì thôi mọi đường.
8. Cơm chín tới, cải ngồng non, gái một con, gà gại ổ.
9. Lợn giò, bò bắp.
10. Vịt già, gà tơ.
1. Chim ngói mùa thu, chim cu mùa hè.
2. Mùa hè cá sông, mùa đông cá bè.
3. Chim, thu, nụ, dé.
4. Một trăm đám cưới không bằng hàm dưới cá trê.
5. Đầu chép, mép trôi, môi mè, lườn trắm.
6. Ếch tháng ba, gà tháng bảy.
7. Cơm và, cháo húp.
8. Ăn cơn có canh, tu hành có vãi.
9. Vụng sá vụng sịt lắm thịt cũng ngon.
10. Cần tái, cải nhừ.
1. Tốt mốc ngon tương.
2. Mua cá thì phải xem mang
Người khôn xem lấy hai hàng tóc mai.
3. Rượu cổ be, chè đầy ấm.
4. Trẻ muối cà, già muối dưa.
5. Sợ người ở phải, hãi người cho ăn.
6. Chó treo, mèo đậy.
7. Ăn tùy nơi, chơi tùy chỗ.
8. Có an cư mới lạc nghiệp.
9. Hay ở, dở đi.
10. Ăn hết nhiều, ở hết bao nhiêu.
1. Chọn bạn mà chơi, chọn nơi mà ở.
2. Vợ hiền hòa, nhà hướng nam.
3. Làm ruộng thì ra, làm nhà thì tốn.
4. Đất lành chim đậu.
5. Ăn lấy chắc, mặc lấy bền.
6. Tiền lĩnh quần chị, tiền chỉ quần em.
7. Cau già khéo bổ thì ngon
Nạ dòng trang điểm lại giòn hơn xưa.
8. Đi hỏi già, về nhà hỏi trẻ.
9. Đường ở cửa miệng.
10. Mưa tránh chỗ trắng, nắng tránh chỗ đen.
1. Có khó mới có miếng ăn.
Không dưng ai dễ mang phần đến cho.
2. Hay ăn thì lăn vào bếp
3. Tay làm hàm nhai, tay quai miệng trễ.
4. Có bụng ăn, có bụng lo.
5. Của như kho không lo cũng hết.
6. Miệng ăn núi lở.
7. Khen nết hay làm, ai khen nết hay ăn.
8. Của làm ăn no, của cho ăn thèm.
9. Khỏi nhà ra thất nghiệp.
10. Tháng tám đói qua, tháng ba đói chết.
1. No ba ngày tết, đói ba tháng hè.
2. Đói ăn vụng, túng làm liều.
3. Sống cậy nhà, già cậy mồ.
4. Sống thì chẳng cho ăn nào
Chết thì cúng giỗ mâm cao cỗ đầy.
5. Sống dầu đèn, chết kèn trống.
6. Thâm đông thì mưa, thâm dưa thì khú, thâm vú thì chửa.
7. Gái dở thèm của chua.
8. Một con so bằng mười con dạ.
9. Sinh được một con, mất một hòn máu.
10. Trâu đẻ tháng sáu, vợ đẻ tháng mười.
1. Người chửa cửa mả.
2. Nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm.
3. Chẳng ốm chẳng đau, làm giầu mấy chốc.
4.Thứ nhất đau mắt, thứ nhì nhức răng.
5. Có thờ có thiêng, có kiêng có lành.
6. Bát nước giải bằng vại thuốc.
7. Thuốc đắng giã tật.

III – ĐỜI SỐNG XÃ HỘI

1. Nòi nào giống ấy.
2. Cây có cội, nước có nguồn.
3. Giấy rách giữ lề.
4. Cha già con cọc.
5. Con nhà tông chẳng giống lông cũng giống cánh.
6. Giỏ nhà ai, quai nhà ấy.
7. Khôn từ trong trứng khôn ra.
8. Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
9. Máu chảy ruột mềm.
10. Khác máu tanh lòng.
1. Một người làm quan cả họ được nhờ.
2. Chim có tổ, người có tông.
3. Chú như cha, già như mẹ *
4. Sảy cha còn chú, sảy mẹ ấp vú dì
5. Giặc bên Ngô không bằng bà cô bên chồng.
6. Cháu bà nội, tội bà ngoại.
7. Nó lú có chú nó khôn.
8. Đắng cay cũng thể ruột rà,
Ngọt ngào cho lắm cũng là người dưng.
9. Ba tháng biết lẫy, bảy tháng biết bò,
Chín tháng lò dò chạy đi.
10. Trẻ lên ba cả nhà học nói.

* Già: chị ruột của mẹ.
1. Tre già măng mọc.
2. Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già.
3. Trẻ trồng na, già trồng chuối.
4. Trẻ cậy cha, già cậy con.
5. Trẻ vui nhà, già vui chùa.
6. Xem trong bếp biết nết đàn bà.
7. Đàn ông cười hoa, đàn bà cười nụ.
8. Vắng đàn ông quạnh nhà, vắng đàn bà quạnh bếp.
9. Đàn bà không biết nuôi heo – đàn bà nhác,
Đàn ông không biết buộc lạt – đàn ông hư.
10. Ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng.
1. Con gái mười bảy, bẻ gãy sừng trâu.
2. Con gái là cái bòn.
3. Gái không chồng như thuyền không lái.
4. Chim khôn lựa nhánh lựa cành
Gái khôn lựa chốn trai lành gửi thân.
5. Thuyền theo lái, gái theo chồng.
6. Nứa trôi sông chẳng giập thì gẫy
7. Gái chồng rẫy chẳng chứng nọ thì tật kia.
8. Trai thời loạn, gái thời bình.
9. Gái chưa chồng hay đi chợ
Trai chưa vợ hay đứng đường.
10. Lửa gần rơm lâu ngày cũng bén.
1. Gái tham tài, trai tham sắc.
2. Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên.
3. Già kén kẹn hom.
4. Ngày lắm mối, tối nằm không.
5. Canh suông khéo nấu thì ngon
Mẹ già khéo nói thì con đắt chồng.
6. Ai vác dùi đục đi hỏi vợ.
7. Lấy vợ chọn tông, lấy chồng chọn giống.
8. Ruộng giữa đồng, chồng giữa làng.
9. Lấy chồng khó giữa làng, hơn lấy chồng sang thiên hạ.
10. Nhường cơm nhường áo không ai nhường chồng.
1. Vợ chồng đầu gối, tay ấp.
2. Gái một con trông mòn con mắt
Gái hai con vú quặt sau lưng
Gái ba con chỉ đâu ngồi đấy.
3. Lệnh ông không bằng cồng bà.
4. Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn.
5. Tôi tớ xét công, vợ chồng xét nhân nghĩa.
6. Gái có công chồng chẳng phụ.
7. Giầu về bạn, sang về vợ.
8. Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ, về già nhờ con.
9. Gái có chồng như gông đeo cổ
Gái không chồng như phản gỗ long đanh.
10. Trai có vợ như rợ buộc chân.
1. Thuyền mạnh về lái, gái mạnh về chồng.
2. Gái ngoan làm quan cho chồng.
3. Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
4. Nồi đồng dễ nấu, chồng xấu dễ sai.
5. Củi mục khó đun,
Chồng lành dễ khiến, chồng khôn khó chiều.
6. Thế gian được vợ hỏng chồng
Mấy khi lại được cả ông lẫn bà.
7. Bát còn có lúc xô xát huống chi vợ chồng.
8. Trai nhớ vợ cũ, gái nhớ chồng xưa.
9. Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người.
10. Con có cha như nhà có nóc.
1. Con hơn cha là nhà có phúc.
2. Đời cha ăn mặn, đời con khát nước.
3. Cha muốn con hay, thày muốn trò khá.
4. Mẹ già như chuối chín cây.
5. Của không ngon nhà nhiều con cũng hết.
6. Giầu con út khó con út.
7. Nhất mẹ, nhì cha, thứ ba bà ngoại.
8. Hùm dữ chẳng nỡ ăn thịt con.
9. Có nuôi con mới biết lòng cha mẹ.
10. Con chẳng chê cha mẹ khó
Chó chẳng chê chủ nhà nghèo.
1. Cha mẹ sinh con trời sinh tính
2. Con cái khôn ngoan vẻ vang cha mẹ
3. Có phúc đẻ con hay lội, có tội đẻ con hay trèo.
4. Chị ngã em nâng.
5. Cắt dây bầu dây bí, ai nỡ cắt dây chị, dây em.
6. Anh em hạt máu sẻ đôi.
7. Anh em như chân tay
8. Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.
9. Dâu là con, rể là khách.
10. Kén dâu thì dễ, kén rể thì khó.
1. Dâu dữ mất họ, chó dữ mất láng giềng.
2. Chị em dâu như bầu nước lã.
3. Áo năng may năng mới, người năng nói năng thân.
4. Ăn trông nồi, ngồi trông hướng.
5. Lời chào cao hơn mâm cỗ.
6. Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng.
7. Thua thầy một vạn không bằng thua bạn một ly.
8. Tin bợm mất bò, tin bạn mất vợ nằm co một mình.
9. Bán anh em xa mua láng giềng gần.
10. Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ.
1. Ngựa chạy có bầy, chim bay có bạn.
2. Dễ người dễ ta.
3. Sẩy đàn tan nghé.
4. Con sâu bỏ rầu nồi canh.
5. Cả vốn lớn lãi.
6. Bán hàng nói thách, làm khách trả rẻ.
7. Quen mặt đắt hàng.
8. Tiền trao cháo múc.
9. Chớ bán gà ngày gió, chớ bán chó ngày mưa.
10. Nhà gần chợ để nợ cho con.
1. Tiền không chân xa gần đi khắp.
2. Đồng tiền liền khúc ruột.
3. Của thiên trả địa.
4. Của thế gian đãi người thiên hạ.
5. Của một đồng, công một nén.
6. Có tiền mua tiên cũng được.
7. Người làm nên của, của không làm nên người.
8. Người sống đống vàng.
9. Thế gian chuộng của, chuộng công
Nào ai có chuộng người không bao giờ.
10. Nhiều tiền thì thắm, ít tiền thì phai.
1. Tiền bạc đi trước mực thước đi sau.
2. Nén bạc đâm toạc tờ giấy.
3. Của bụt mất một đền mười.
4. Đồng tiền đi trước là đồng tiền khôn, đồng tiền đi sau là đồng tiền dại.
5. Mạnh về gạo bạo về tiền.
6. Của bền tại người.
7. Nhất tội, nhì nợ.
8. Công nợ trả dần, cháo nóng húp quanh.
9. Làm nghề gì ăn nghề ấy.
10. Ruộng bề bề không bằng nghề trong tay.
1. Nhất sĩ nhì nông, hết gạo chạy rông, nhất nông nhì sĩ.
2. Bầu dục chẳng đến bàn thứ tám, cám nhỏ chẳng đến miệng lợn sề.
3. Thằng mõ có bỏ đám nào.
4. Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba học trò.
5. Làm hàng săng, chết bó chiếu.
6. Dò sông, dò bể, dò nguồn
Biết sao được bụng lái buôn mà dò.
7. Đi buôn nói ngay bằng đi cày nói dối.
8. Bà chúa đứt tay bằng ăn mày sổ ruột.
9. Muốn nói oan làm quan mà nói.
10. Quan thấy kiện như kiến thấy mỡ.
1. Lễ vào quan như than vào lò.
2. Quan thời xa, bản nha thời gần.
3. Tuần hà là cha kẻ cướp.
4. Hay làm thì đói, hay nói thì no.
5. Cốc mò cò xơi.
6. Cá lớn nuốt cá bé.
7. Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng tổng.
8. Tức nước vỡ bờ.
9. Con giun xéo lắm cũng quằn.
10. Được làm vua, thua làm giặc.
1. Nhà dột từ nóc dột xuống
2. Mèo tha miếng thịt xôn xao
Kễnh tha con lợn thì nào thấy chi.
3. Miệng quan trôn trẻ.
4. Thứ nhất sợ kẻ anh hùng
Thứ nhì sợ kẻ bần cùng cố thây.
5. Quan nhất thời, dân vạn đại.
6. Quân tử phòng thân, tiểu nhân phòng bị gậy.
7. Có chí làm quan, có gan làm giầu.
8. Phú quý sinh lễ nghĩa.
9. Miệng nhà giầu nói đâu ra đấy.
10. Chung nhau thì giầu, chia nhau thì khó.
1. Giầu ăn ba bữa, khó cũng đỏ lửa ba lần.
2. Sông có khúc, người có lúc.
3. Ăn cơm với cáy thì ngáy o o, ăn cơm thịt bò thì lo ngay ngáy.
4. Có hay không mùa đông mới biết.
Giầu hay nghèo ba mươi tết mới hay.
5. Nước chảy chỗ trũng.
6. Nghèo hèn giữa chợ ai chơi
Giầu trong hang núi nhiều người hỏi thăm.
7. Giầu bán ló, khó bán con. *
8. Cái khó bó cái khôn.
9. Tiền vào nhà khó như gió vào nhà trống.
10. Giặc đến nhà đàn bà phải đánh.

* ló: lúa.
1. Giầu nhà quê không bằng kéo lê kẻ chợ
2. Đất có lề, quê có thói.
3. Phép vua thua lệ làng.
4. Tết đến sau lưng
Ông vải thì mừng, con cháu thì lo.
5. Một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần.
6. Có bệnh thì vái tứ phương
Không bệnh đồng lương không mất.
7. Miệng nam mô, bụng một bồ dao găm.
8. Thầy bói nói dựa.
9. Đất có thổ công, sông có Hà Bá.

IV. ĐỜI SỐNG TINH THẦN – NHỮNG QUAN NIỆM VỀ NHÂN SINH

1. Người là hoa đất.
2. Người ba đấng, của ba loài.
3. Trông mặt mà bắt hình dung.
4. Người khôn dồn ra mặt.
5. Lớn vú bụ con
6. Cái răng, cái tóc là góc con người.
7. Con mắt là mặt đồng cân.
8. Người khôn con mắt đen sì
Người dại con mắt nửa chì nửa thau.
9. Rộng miệng cả tiếng.
10. Môi dầy ăn vụng đã xong
Môi mỏng hay hớt, môi cong hay hờn.
1. Tẩm ngẩm mà đấm chết voi
2. Sống lâu biết nhiều sự lạ.
3. Đi một ngày đàng học một sàng khôn.
4. Điếc không sợ súng.
5. Biết sự đời, mười đời chẳng khó.
6. Trăm nghe không bằng một thấy.
7. Trăm hay không bằng tay quen.
8. Quen tay hay làm.
9. Có dốt mới có khôn.
10. Thua keo này, bày keo khác.
1. Ở trong chăn mới biết chăn có rận.
2. Thức khuya mới biết đêm dài
Đoạn trường ai có qua cầu mới hay.
3. Lửa thử vàng, gian nan thử sức.
4. Vàng thật không sợ lửa.
5. Lời nói không cánh mà bay.
6. Rượu vào, lời ra.
7. Ăn có nhai, nói có nghĩ.
8. Biết thì thưa thốt, không biết thì dựa cột mà nghe.
9. Nói hay hơn hay nói.
10. Chim khôn chưa bắt đã bay
Người khôn ít nói, ít hay trả lời.
1. Cả giận mất khôn.
2. Hơi đâu mà giận người dưng.
3. Một đời kiện, chín đời thù.
4. Ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành.
5. Cây ngay chẳng sợ chết đứng.
6. Có tật giật mình, có tình kinh trong bụng.
7. Thẳng mực tầu, đau lòng gỗ.
8. Mất lòng trước, được lòng sau.
9. Mật ngọt chết ruồi,
Những nơi cay đắng là nơi thật thà.
10. Trâu đồng nào ăn cỏ đồng ấy.
1. Ăn cây nào rào cây ấy.
2. Thân trâu trâu lo, thân bò bò liệu.
3. Cha chung không ai khóc.
4. Cháy nhà hàng xóm bình chân như vại.
5. Việc nhà thì nhác, việc chú bác thì siêng.
6. Có vay có trả, mới thỏa lòng nhau.
7. Cá mè một lưa.
8. Tắt đèn nhà ngói cũng như nhà tranh.
9. Làm quan ăn lộc vua, ở chùa ăn lộc phật.
10. Ngày dưng thì chẳng chắp gai,
Đến khi có cá mượn chài ai cho.
1. Người lười, đất không lười.
2. Mồn miệng đỡ chân tay.
3. Giã gạo thì ốm, giã cốm thì khỏe.
4. Khéo ăn thì no, khéo co thì ấm.
5. Đo bò làm chuồng.
6. Yếu chân chạy trước.
7. Làm khi lành để dành khi đau.
8. Mất bò mới lo làm chuồng.
9. Có mình thì phải giữ.
10. Buôn tàu bán bè không bằng ăn dè, hà tiện.
1. Đãi cứt sáo lấy hạt đa, đãi cứt gà lấy hạt tấm.
2. Kiếm củi ba năm thiêu một giờ.
3. Đời cha vo tròn, đời con bóp bẹp.
4. Sông lở cát bồi.
5. Được lòng ta xót xa lòng người.
6. Bói rẻ còn hơn ngồi không.
7. Chẳng được con trắm, con chép cũng được mớ tép, mớ tôm.
8. Thả con săn sắt, bắt con cá rô.
9. Lọt sàng xuống nia.
10. Lá rụng về cội
1. Cơm không ăn, gạo còn đó.
2. Gạo đổ hót chẳng đầy thưng.
3. Mất cả chì lẫn chài.
4. Được một bữa cơm người, mất mười bữa cơm nhà.
5. Đã khó, chó cắn thêm.
6. Biết tội đâu mà tránh, biết phúc đâu mà tìm.
7. Buồn ngủ lại gặp chiếu manh,
Hay ăn làm biếng gặp anh đứng đường.
8. Đi đêm lắm có ngày gặp ma.
9. Bốn chín chưa qua, năm ba đã tới.
10. Tránh vỏ dưa, gặp vỏ dừa.
1. Chạy trời không khỏi nắng.
2. Thuốc chữa bệnh, chẳng chữa được mệnh.
3. Khi nên, trời cũng chiều người.
4. Năm ngón tay có ngón dài ngón ngắn.
5. Ai uốn câu cho vừa miệng cá.
6. Thánh cũng có khi nhầm.
7. Bới bèo ra bọ.
8. Đánh rắn phải đánh dập đầu.
9. Đã tu thời tu cho trót.
10. Có chí thì nên.
1. Mưu cao chẳng bằng chí dày.
2. Kiến tha lâu cũng đầy tổ.
3. Có công mài sắt có ngày nên kim.
4. Năng nhặt chặt bị.
5. Trăm bó đuốc cũng vớ được con ếch.
6. Còn nước, còn tát.
7. Thắng không kiêu, bại không nản.
8. Sóng cả chớ ngã tay chèo.
9. Vua thua thằng liều.
10. Con mẹ đẻ con con.
1. Còn gà trống, gà mái thì còn gà dò.
2. Trời không đóng cửa ai.
3. Ai giầu ba họ, ai khó ba đời.
4. Cờ đến tay ai người ấy phất.
5. Bút sa, gà chết.
6. Xay lúa thì thôi ẵm em.
7. Lắm sãi không ai đóng cửa chùa.
8. Bụng làm dạ chịu.
9. Có gan ăn cắp, có gan chịu đòn.
10. Chó gầy hổ mặt người nuôi.
1. Rau nào sâu ấy.
2. Gần lửa rát mặt.
3. Cháy thành vạ lây.
4. Gần nhà giầu đau răng ăn cốm. gần kẻ trộm ốm lưng chịu đòn.
5. Lụt thì lút cả làng.
6. Được mùa thày chùa no bụng.
7. Trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết.
8. Rút dây động rừng.
9. Môi hở răng lạnh.
10. Đánh chó ngó chủ nhà.
1. Yêu con chị vị con em.
2. Cách sông nên phải lụy đò.
3. Há miệng mắc quai.
4. Muốn tròn phải có khuôn, muốn vuông phải có thước.
5. Đầu xuôi đuôi lọt.
6. Vạn sự khởi đầu nan.
7. Cũ người mới ta.
8. Trước lạ sau quen.
9. Đánh bạc quen tay, ngủ ngày quen mắt.
10. ăn vặt quen mồm.
1. Ngựa quen đường cũ.
2. Người làm sao, chiêm bao làm vậy.
3. Dốt đặc còn hơn hay chữ lỏng.
4. Tích tiểu thành đại.
5. Góp gió thành bão, góp cây nên rừng.
6. Ba người đánh một, không chột cũng què.
7. Vét nồi ba mươi cũng đầy niêu mốt.
8. Xấu đều hơn tốt lỏi.
9. Không có lửa sao có khói.
10. Sanh không thủng cá đi đằng nào.
1. Có bột mới gột nên hồ.
2. Ôm rơm rặm bụng.
3. Chơi dao sắc có ngày đứt tay.

phần thứ hai: CA DAO

A. CA DAO THỜI KỲ PHONG KIẾN

I. LAO ĐỘNG VÀ CÁC NGHỀ NGHIỆP.

Lậy trời mưa xuống
Lấy nước tôi uống
Lấy ruộng tôi cày
Lấy đầy bát cơm
Lấy rơm đun bếp.
Lậy ông nắng lên
Cho trẻ con chơi
Cho già bắt rận
Cho tôi đi cày.

Tay cầm con dao
Làm sao cho sắc
Để mà dễ cắt
Để mà dễ chặt
Chặt lấy củi cành
Trèo lên rừng xanh
Chạy quanh sườn núi
Một mình thui thủi
Chặt cây chặt củi
Tìm chốn ta ngồi
Ta ngồi gió mát thảnh thơi…

Kìa một đàn chim
Ở đâu bay đến?
Ở đâu bay lại?
Con đang cắn trái,
Con đang tha mồi.
Qua lối nọ nó ăn…
Cái con hươu kia
Mày đang ăn lộc,
Lộc vả, lộc sung
Mày thấy không tớ?
Tớ không đuổi mày
Mày qua lối nọ làm chi?

1. Tháng chạp là tháng trồng khoai
Tháng giêng trồng đâu, tháng hai trồng cà.
2. Tháng ba thì đậu đã già
Ta đi ta hái về nhà phơi khô
3. Tháng tư đi tậu trâu bò
Để ta sắm sửa làm mùa tháng năm
4. Sớm ngày đem lúa ra ngâm
Bao giờ mọc mầm ta sẽ vớt ra
5. Gánh đi ta ném ruộng ta
Đến khi nêm mạ thì ta nhổ về
6. Sắp tiền mượn kẻ cấy thuê
Cấy xong thì mới trở về nghỉ ngơi

1. Cỏ lúa đã dọn sạch rồi
Nước ruộng vơi mười còn độ một hai
2. Ruộng thấp đóng một gầu dai
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng
3. Chờ cho lúa có đòng đòng
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người
4. Bao giờ cho đến tháng mười
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta
5. Gặt hái ta đem về nhà
Phơi khô, quạt sạch ấy là xong công.
1. Một năm chia mười hai kỳ
Thiếp ngồi thiếp tính khó gì chẳng ra:
2. Tháng giêng ăn tết ở nhà
Tháng hai rỗi rãi quay ra nuôi tằm
3. Tháng ba đi bán vải thâm
Tháng tư đi gặt, tháng năm trở về
4. Tháng sáu em đi buôn bè
Tháng bảy, tháng tám trở về đong ngô.
5. chín, mười cắt rạ đồng mùa
Một, chạp vớ được anh đồ dài lưng
6. Anh ăn rồi anh lại nằm
Làm cho thiếp phải quanh năm lo phiền.
7. Chẳng thà mấy chú lực điền
gạo bồ, thóc đống còn phiền nỗi chi?
1. Khéo thay công việc nhà quê
Quanh năm khó nhọc dám hề khoan thai.
2. Tháng chạp thời mắc trồng khoai
Tháng giêng trồng đâu, tháng hai trồng cà
3. Tháng ba cày vỡ ruộng ra
Tháng tư bắc mạ thuận hòa mọi nơi
4. Tháng năm gặt hái vừa rồi,
Bước sang tháng sáu nước trôi đầy đồng
5. Nhà nhà, vợ vợ, chồng chồng
Đi làm ngoài đồng sá kể cơm trưa
6. Tháng sáu tháng bảy đang vừa
Vun trồng giống lúa, bỏ chừa cỏ tranh.
1. Tháng tám lúa trỗ đã đành
Tháng mười cắt hái cho nhanh kịp người.
2. Khó khăn làm mấy tháng trời
Lại còn mưa nắng bất thời chờ trông.
3. Cắt rồi nộp thuế nhà công
Từ rày mới được yên lòng ấm no.
1. Cuối thu trồng cải, trồng cần
Ăn đong sáu tháng, cuối xuân thì tàn
2. Bấy giờ rau muống đã lan
Lại ăn cho đến thu tàn thì thôi.
3. Mùa nào thức ấy lần hồi
Lọ là phải chuốc của người đâu xa.

1. Quanh năm cấy hái, cầy bừa
Vụ chiêm thì hạ, vụ mùa thì đông
2. Ai về nhắn chị em cùng
Muốn cho sung sướng nghề nông phải cần
3. Dưa gang một, chạp thì trồng
Chiêm cấy trước tết thì lòng đỡ lo
4. Tháng hai đi tậu trâu bò
Cày đất cho ải, mạ mùa ta gieo.
1. Tháng sáu mà cấy mạ già
Thà rằng công ấy ở nhà ẵm con
2. Tháng chạp mà cấy mạ non
Thà rằng công ấy ẵm con ở nhà.

1. Nửa đêm trăng sáng mây cao
Triệu trời nắng gắt, nắng gào chẳng sai
2. Lúa khô nước cạn ai ơi!
Rủ nhau tát nước, chờ trời còn lâu.
1. Trên trời có ông sao Thần (1)
Bốn mùa chỉ lối cho dân ăn làm.
2. Sang xuân Thần cúi lom khom
Là mùa trồng đậu, dân làng biết chăng?
3. Bước sang tháng chín rõ trăng
Lưng thần hơi đứng là đang gặt mùa.
4. Tua rua đi rắc mạ mùa (2)
Tiểu thử đi bừa, cầy ruộng rất sâu (3)
5. Hàn lộ lúa trổ bằng đầu (4)
Lập đông ta quyết về mau gặt mùa. (5)

(1). Sao Thần: chòm sao Thần nông.
(2). Tua rua: chòm sao nhỏ có 7 ngôi liền nhau. Khi tua rua mọc gọi là tiết mang hiện hoặc mang chủng. Tua rua mọc vào đầu tháng sáu dương lịch.
(3). Tiểu thử: đầu tháng 7.
(4). Hàn lộ: đầu tháng 10.
(5). Lập đông: đầu tháng 11.
1. Tua rua một tháng mười ngày
Cấy trốc luống cầy cũng được lúa xơi
2. Ra đường thấy vỏ thị rơi
Tua rua quặt lại thì thôi cấy mùa.
3. Tua rua thì mặc tua rua
Mạ già, ruộng ngấu không thua bạn điền.

1. Đói thì ăn ráy, ăn khoai
chớ thấy lúa trỗ tháng hai mà mừng (1)

(1). Lúa trỗ sớm sẽ gặp hạn, gặp rét.
1. Bao giờ mang hiện đến ngày
Cầy bừa cho chín, mạ này đem gieo

1. Gỗ kiền anh để đóng cầy
Gỗ lim, gỗ sến anh nay đóng bừa
2. Răng bừa tám cái còn thưa
Lưỡi cầy tám tấc đã vừa luống to
3. Muốn cho lúa mẩy, bông to
Cầy sâu, bừa kỹ, phân gio cho nhiều.

1. Rủ nhau đi cấy đi cầy
Bây giờ khó nhọc, có ngày phong lưu.
2. Trên đồng cạn, dưới đồng sâu
Chồng cầy, vợ cấy, con trâu đi bừa.
1. Cày đồng đang buổi ban trưa
Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày.
2. Ai ơi! bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt, đắng cay muôn phần!

1. Rạng ngày vác cuốc ra đồng
Tay cầm mồi lửa, tay dòng thừng trâu.
2. Ruộng đầm nước cả, bùn sâu
Suốt ngày cùng với con trâu đi cày.

1. Việc làm chẳng quản nắng mưa
Cơm ăn đắp đổi, muối dưa qua ngày!
2. Ai ơi bưng bát cơm đầy
Biết công kẻ cấy, người cày mấy nao!
1. Văn chương phú lục chẳng hay
Trở về làng cũ học cày cho xong!
2. Sớm ngày vác cuốc thăm đồng
Hết nước thì lấy gầu sòng tát lên
3. Hết mạ ta lại quẩy thêm,
Hết lúa ta lại mang tiền đi đong.
4. Nữa mai lúa chín đầy đồng
Gặt về, đập, sẩy, bõ công cấy cày.

1. Ơn trời mưa nắng phải thì
Nơi thì bừa cạn, nơi thì cày sâu.
2. Công lênh chẳng quản bao lâu
Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng
Ai ơi! chớ bỏ ruộng hoang
Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu.
1. Mặt trời tang tảng rạng đông
Chàng ơi, trở dậy ra đồng kẻo trưa!
2. Phận hèn bao quản nắng mưa
Cày sâu, bừa kỹ, được mùa có phen.

1. Nhờ trời mưa gió thuận hòa
Nào cày, nào cấy, trẻ gìa đua nhau
2. Chim: gà, cá: nhệnh, cảnh: cau,
Mùa nào thức ấy giữ mầu quê hương.

1. Anh đi anh nhớ quê nhà
Nhớ canh rau muống, nhớ cà dầm tương.
2. Nhớ ai dãi nắng dầm sương
Nhớ ai tát nước bên đường hôm mai.
1. Trâu ơi, ta bảo trâu này!
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
2. Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy, ai mà quản công!
3. Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.

1. Nghé ơi, ta bảo nghé này,
nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu
2. Ở đời khôn khéo chi đâu
Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần.

1. Cha chài, mẹ lưới, con câu
Con trai tát nước, nàng dâu đi mò.
1. Nom ra ngoài bể mù mờ
Thấy anh câu đục, câu dù mà thương.

1. Nàng đứng ở đó mà chi
Nàng về kẻ bể mà đi kéo rùng
2. Nhà tôi nghề giã, nghề sông
Lặng thì tôm cá đầy trong, đầy ngoài.
3. Cá trắng cho chí cá khoai
Còn như cá lẹp, cá mai cũng nhiều.
4. Quý hồ nàng có lòng yêu
Cái đường đi lại còn nhiều khi ta.
5. Nàng về thưa với ông, bà
Có cho nàng lấy chồng xa hay đừng?
1. Con ơi nhớ lấy lời cha
Mồng năm tháng chín thật là bão rươi.
2. Bao giờ cho đến tháng mười
Thì con vào lộng ra khơi mặc lòng.

1. Những người đi biển làm nghề
Thấy dòng nước nóng thì về đừng đi
2. Sóng lừng, bụng biển ầm ì
Bão mưa ta tránh chớ hề ra khơi.

1. Lênh đênh chiếc giã giữa vời
Chiếc thuyền mành vô cửa biết mấy đời gặp nhau.
1. Nước chảy xuôi, thuyền anh trôi ngược
Anh chống không được, anh bỏ sào xuôi
2. Sào xuôi thuyền cũng trôi xuôi
Khúc sông bỏ vắng để người sầu riêng
3. Người sầu riêng cơm trắng không ăn
Đã bưng lấy bát lại dằn xuống mâm.

1. Câu cá cá chẳng ăn mồi
Đừng câu mà mệt, đừng ngồi mà trưa.
2. Cần câu bạc, cột chạc dây tơ
Sáng trăng không nhởi, trăng mờ không câu.
3. Sông sâu mà biển cũng sâu
Muốn ăn cá lớn dong câu cho dài.
1. Anh đây lên thác, xuống ghềnh
Thuyền nan đã trải, thuyền mành thử chơi
2. đi cho khắp bốn phương trời
Cho trần biết mặt, cho đời biết tên.

1. Muốn ăn măng trúc, măng giang
Măng tre, măng nứa, cơm lam thì chèo (1)
2. Ngược xuôi lên thác, xuống đèo
Chim kêu bên nọ, vượn trèo bên kia.

1. Tiếc công lên thác, xuống ghềnh.
Tay chèo, tay chống, một mình nhờ ai?
2. Bây giờ thở vắn than dài
Ngỡ rằng hò hẹn ai hay hẹn hò.

(1). Cơm lam: cơm nấu bằng cách đổ gạo và nước vào ống nứa tươi, nút kỹ bằng lá rồi chất lên lửa đốt.
1. Giỏi giang chớ vội khoe tài
Sông sâu sào vắn (ngắn), bể trời mênh mông
2. Nước to, sóng cả khôn chừng
Đã vào gian hiểm xin đừng non tay.

1. Tằm chăn ba lứa thuận hòa
Tiền dư, thóc tích giữa nhà cao sang.

1. Con tằm nó ăn lá dâu
Có khi ăn mất cả trâu lẫn bò.

1. Nuôi tằm cần phải có dâu
Muốn cho dâu tốt phải mau vun trồng
2. Vườn thì cuốc rãnh thong dong
Cách nhau hai thước đặt hông cho dày
3. Giống dâu ưa nước xưa nay
Những khi ngập hết thì cây cũng già.
1. Trời mưa lác đác ruộng dâu
Cái nón đội đầu, cái thúng cắp tay
2. Bước chân xuống hái dâu này
Nuôi tằm cho lớn mong ngày ươm tơ
3. Thương em chút phận ngây thơ
Lầm than đã trải, nắng mưa đã từng
4. Xa xôi ai có tỏ chừng
Gian nan, tân khổ ta đừng quên nhau.

1. Hôm qua dệt cửi thoi vàng
Sực nhớ đến chàng, cửi lại dừng thoi
2. Cửi rầu, cửi tủi chàng ơi
Ngọn đèn sáng tỏ bóng người đằng xa…
1. Em về dệt cửi trên khung
Để anh đọc sách cùng chung một đèn
2. Vải em em bán lấy tiền
Em mua lụa liền may áo cho anh
3. Trong thì lót tím, lót xanh
Ngoài thêu đôi bướm lượn cành phù dung.

1. Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi canh cửi còn anh vá chài.
2. Nhất thương là cái hoa lài
Nhì thương ai đó áo dài ấm thẩn.
3. Gặp người sao có một lần
Để em thương nhớ tần ngần suốt năm.
1. Anh làm thợ mộc Thanh Hoa
Làm cầu, làm quán, làm nhà khéo thay:
2. Lựa cột anh dựng đòn tay
Bào trơn, đóng bén nó ngay một bề.
3. Bốn cửa anh chạm bốn dê
– Bốn con dê đực chầu về tổ tông.
4. Bốn cửa anh chạm bốn rồng,
Trên thì rồng ấp, dưới thì rồng leo
5. Bốn cửa anh chạm bốn mèo
Con thì bắt chuột, con leo xà nhà.
6. Bốn cửa anh chạm bốn gà
Đêm thì nó gáy nhà ra làm vườn.
1. Bốn cửa anh chạm bốn lươn
Con thì thắt khúc, con trườn ra xa
2. Bốn cửa anh chạm bốn hoa
Trên là hoa sói, dưới là hoa sen.
3. Bốn cửa anh chạm bốn đèn
Một đèn dệt cửi, một đèn quay tơ,
4. Một đèn đọc sách, ngâm thơ
Một đèn anh để đợi chờ nàng đây.

1. Quê anh ngày tám tháng ba
Quay vào làm rọ, quay ra đan lờ
2. Nhờ trời mưa thuận, gió hòa
Lờ, rọ bán được, cảnh nhà thêm vui.
1. Một mình vừa chẻ, vừa đan
Lỗi lầm thì chịu, phàn nàn cùng ai

1. Mài dừa đạp cám cho nhanh
Ép dầu mà chải tóc anh, tóc nàng
2. Mài dừa dưới ánh trăng vàng,
Ép dầu mà chải tóc nàng, tóc anh.

1. Lấy anh thì sướng hơn vua
Anh đi xúc giậm được cua kềnh càng
2. Đem về nấu nấu, rang rang
Chồng chan, vợ húp lại càng hơn vua.

1. Tháng tư cơm gói ra Hòn (1)
Muốn ăn trứng nhạn phải lòn hang Mai.

(1). Hòn: tức là hòn Chông ở tỉnh Kiên Giang.
1. Tháng giêng là tháng ăn chơi
Anh ra nằm bãi (1) hòn Khơi một mình (2)

1. Tre già anh để pha nan
Lớn đan nong, né bé đan giần sàng
2. Gốc thì anh để kê giường
Ngọn ngành anh để cắm giàn trầu, dưa.

1. Võng này đan sợi đay già
Em đi kén võng đã ba năm chầy
2. Đôi ta chung mẹ, chung thầy
Đêm trăng chung võng vơi đầy thủy chung.

(1). Đi nằm bãi: ra chờ đợi ngoài bãi biển chờ đồi mồi bò lên để bắt.
(2). Hòn Khơi: ở Hà Tiên.
1. Vạn Vân có bến Thổ Hà (1)
Vạn Vân nấu rượu, Thổ Hà nung vôi
2. Nghĩ rằng đá nát thì thôi
Ai ngờ đá nát nung vôi lại nồng.

1. Chăn đơn, gối chiếc lạnh lùng
Nửa mình thì đắp, nửa phòng tình nhân.

1. Em về dọn quán bán hàng
Để anh là khách đi đàng trú chân.

1. Trắng da là bởi phấn dồi
Da đen là bởi em ngồi chợ trưa.

1. Bán hàng thì bán sớm mai
Chợ trưa người vãn còn nài làm chi.
1. Tin nhau buôn bán cùng nhau
Thiệt hơn, hơn thiệt, trước sau như lời
2. Hay gì lừa đảo kiếm lời
Một nhà ăn uống, tội trời riêng mang.
3. Theo chi những thói gian tham
Pha phôi thực giả tìm đường dối nhau
4. Của phi nghĩa có giầu đâu
Ở cho ngay thật giầu sau mới bền.

1. Em ơi chớ lấy quân buôn
Khi vui nó ở, khi buồn nó đi
1. Nhỏ còn thơ dại biết chi
Lớn rồi đi học, học thì phải siêng
2. Theo đòi cũng thể bút nghiên
Thua em, kém chị cũng nên hổ mình.

1. Cả làng có một thầy đồ
Dạy học thì ít, bắt cua thì nhiều
2. Thương thầy trò cũng muốn theo
Trò sợ thầy nghèo bán cả trò đi.

1. Cha mẹ giầu con thong thả
Cha mẹ nghèo con vất vả, gian nan.
2. Sớm mai lên núi đốt than
Chiều về xuống biển, đào hang bắt còng.
1. Chợ Thốt Nốt có lập đài khán võ (1)
Chợ Cờ Đổ tuy nhỏ mà đông (2)
2. Thấy em buôn bán anh chẳng vừa lòng
Để anh làm mướn kiếm từng đồng nuôi em.

1. Anh về ngoài Huế thắt rế tai bèo
Gửi vô em bán đỡ nghèo nuôi anh

1. Người ta bán vạn buôn ngàn
Em đây làm giấy cơ hàn vẫn tươi.
2. Dám xin ai đó chớ cười
Vì em làm giấy cho người viết thơ.

(1), (2). Thốt Nốt, Cờ Đổ: thuộc tỉnh Hậu Giang.
1. Giã nay rồi lại giã mai
Đôi chân tê mỏi, dó ơi vì mày
2. Seo đêm rồi lại seo ngày
Đôi tay nhức buốt vì mày giấy ơi.

1. Hỡi anh làm thợ nơi nao
Để em gánh đục, gánh bào đi theo.

1. Lấy chồng thợ mộc sướng sao
Mạt cưa rấm bếp, vỏ bào nấu cơm
2. Vỏ bào còn nỏ hơn rơm
Mạt cưa rấm bếp còn thơm hơn trầm.
1. Muốn ăn cơm trắng, cá thèn
Thì về Đa Bút đi rèn với anh (1)
2. Một ngày ba bữa cơm canh
Tối về quạt mát cho anh ngồi rèn.

1. Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi chẻ lạt cho anh chắp thừng.

1. Hoài thân lấy chú thợ khay(2)
Cò cưa, ký quéc cả ngày cơm không.

1. Nhà em mả táng hàm rồng
Thì em mới lấy được chồng thợ khay

(1). Đa Bút: một thôn ở đông nam huyện Vĩnh Lộc, Thanh Hóa
(2). Thợ khay: thợ khảm

II. LỊCH SỬ VÀ ĐẤT NƯỚC.

1. Ai về Phú Thọ cùng ta
Vui ngày giổ Tổ tháng ba mùng mười (1)
2. Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba.

1. Nhớ xưa đương thủa triều Hùng
Vũ Ninh nổi đám bụi hồng nẻo xa.
2. Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài.
3. Lên ba đáng tuổi anh tài
Roi ngà, ngựa sắt ra oai trận tiền.
4. Một phen khói lửa dẹp yên,
Sóc Sơn nhẹ gót thần tiên lên trời. (2)

(1). Giỗ Tổ: Hùng Vương.
(2). Bài này nói về Thánh Gióng.
1. Ai về đến huyện Đông Đông Anh
Ghé thăm phong cảnh Loa thành Thục Vương.

1. Ru con con ngủ ngon lành
Để mẹ gánh nước rửa bành ông voi
2. Muốn coi lên núi mà coi
Coi bà quản tượng cưỡi voi bành vàng (1)

1. Ai về Hậu Lộc, Phú Điền (2)
Nhớ đây Bà Triệu trận tiền xung phong.

(1). Tương truyền câu này ca ngợi Bà Triệu, lãnh tụ nghĩa quân chống nhà Ngô xâm lược vào năm 248.
Có nơi còn chép:
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi, đánh cồng
Túi gấm cho lẫn túi hồng
Têm trầu cánh kiến cho chồng trẩy quân.
(Trấu têm cánh kiến giống như trồng têm cánh phượng).
(2). Phú Điền: nay là xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Hiện nay còn lăng và đền thờ Bà Triệu.
1. Sa Nam trên chợ dưới đò (1)
Nơi đây Hắc Đế kéo cờ dụng binh

1. Bạch Đằng giang là sông cửa ải
Tổng Hà Nam là bãi chiến trường (2)

(1). Sa Nam: thị trấn huyện lỵ Nam Đàn. Năm 722 Mai Hắc Đế xây Vạn An Thành ở núi Vệ Sơn cùng nhân dân chống bọn xâm lược nhà Đường. Hiện nay ở Vệ Sơn còn đền thờ Mai Hắc Đế.

(2). Năm 1288 Trần Hưng Đạo diệt quân của Ô Mã Nhi ở sông Bạch Đằng (sông chảy giữa hai tỉnh Quảng Ninh và Hải Phòng)
1. Nhong nhong ngựa ông lại về
Cắt cỏ Bồ Đề cho ngựa ông ăn. (1)

1. Lạy trời cho cả gió lên
Cho cờ vua Bình Định bay trên kinh thành (2)

(1). Câu này nói lên nỗi vui mừng của nhân dân khi nghĩa quân của Lê Lợi tiến về đóng ở bến Bồ Đề (huyện Gia Lâm, Hà Nội), chuẩn bị tổng tấn công quân xâm lược nhà Minh giải phóng thành Đông Quan (nay là thủ đô Hà Nội)
(2). Ngày 2 tháng 1 năm Bính Tuất (1418) Lê Lợi dựng cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh và tự xưng là Bình Định Vương. Câu này nói lên ước vọng của nhân dân mong cho nghĩa quân của Lê Lợi mau giải phóng đất nước.
1. Ai lên Biên Thượng, Lam Sơn
Nhớ Lê Thái Tổ chặn đường quân Minh. (1)

1. Đời vua Thái Tổ, Thái Tông
Con bế, con dắt, con bồng, con mang. (2).

(1). Biên Thượng, Lam Sơn: thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa.
(2). Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông: Đời hai vua này nhân dân sống sung túc. Sinh con đẻ cái, sản xuất và chăn nuôi đều phát triển.
1. Đời vua Vĩnh Tộ lên ngôi (1)
Cơm trắng đầy nồi, trẻ chẳng ăn cho.

1. Tùng tùng đánh trống quân sang
Chợ Già trước mặt, quán Nam bên đàng
2. Qua Chiêng thì rẽ sang Giàng
Qua quán Đông Thổ vào làng Đình Hương
3. Anh đi theo chúa Tây Sơn
Em về cày cuốc mà thương mẹ già (2).

(1). Vĩnh Tộ: chỉ Lê Thần Tông.
(2). Chợ Già, quán Nam, Chiêng: thuộc huyện Hoằng Hóa. Giàng, Đông Thổ, Đình Hương: thuộc huyện Đông Sơn tỉnh Thanh Hóa.
1. Trên trời có ông sao Tua
Ba Làng, Trà Lũ có vua Ba Vành.(1)

1. Trên trời có ông sao Tua
Ở làng Nguyệt Giám có vua Ba Vành
2. Phương đông quật lũ hùng tinh
Làm cho bảy viện tan tành ra tro. (2)

(1). Ba Làng, Trà Lũ: tức Trà Trung, Trà Bắc. Trà Đoài thuộc huyện Xuân Trường tỉnh Nam Định. Trà Lũ là nơi cố thủ của Phan Bá Vành (vua Ba Vành), khi bị quân triều đình đàn áp. Phan Bá Vành lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa nông dân lớn dưới triều vua Minh Mạng.

(2). Nguyệt Giám, Nguyệt Lâm: thuộc làng Minh Giám, huyện Kiên Xương, tỉnh Thái Bình, quê hương Phan Bá Vành. Sau Minh Mạng bắt đổi làng Minh Giám thành Nguyệt Giám. Nguyệt Lâm nay thuộc xã Vũ Bình, huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình còn Nguyệt Giám thuộc xã Minh Tân, huyện Kiến Xương, tỉnh Thái Bình.
1. Có chàng Công Tráng họ Đinh
Dựng lũy Ba Đình chống đánh giặc Tây.
2. Cơ mưu, dũng lược ai tày
Chẳng quản đêm ngày vì nước lo toan
3. Dù cho vận nước chẳng còn,
Danh nghĩa vẹn toàn, muôn thủa không phai. (1)

1. Vườn ai trồng trúc, trồng tre
Ở giữa trồng chè, hai bên đào ao
2. Ấy nhà một đấng anh hào
Họ Phan làng Thái, đồng bào kính yêu.(2)

(1). Lũy Ba Đình: Một căn cứ chống Pháp của nghĩa quân Cần Vương Thanh Hóa dưới sự chỉ huy của: Đinh Công Tráng, Phạm Bành, Hoàng Bật Đạt. Ba Đình là ba làng: Mỹ Khê, Thượng Thọ và Mậu Thịnh thuộc huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
(2). Họ Phan, làng Thái: Tức Phan Đình Phùng người làng Đông Thái nay là Đức phong, huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh.
1. Sông Lam một dải nông sờ
Nhớ người quân tử bơ vơ nổi chìm. (1)

1. Nhớ ai nhớ mãi, nhớ hoài
Nhớ người tráng sĩ gươm mài dưới trăng (2)

(1). Người quân tử: chỉ cụ Phan Đình Phùng.
(2). Người tráng sĩ: chỉ Cao Thắng, một vị tướng của Phan Đình Phùng.
1. Kệ Sơn, Phượng Lĩnh đôi hàng
Đi về mấy độ ngang tàng vào ra
2. Ngàn Hống hỏi khách đi qua
Nào ai là kẻ xông pha đứng đầu. (1)

1. Đường đi chín xã sông con
Hỏi thăm ông Hưởng Hiệu hãy còn hay không? (2)
2. Ngó vô Linh Đồng mây mờ
Nhớ ông Nguyên soái dựng cờ đánh Tây.(3)
3. Sông Côn khi cạn, khi đầy
Khí thiêng đất nước, nơi này vẫn thiêng. (4)

(1). Đây là lời một nghĩa quân thương tiếc ông Thái Vĩnh Chinh, một trong những lãnh tụ của phong trào Cần Vương.
(2). Ông Hưởng Hiệu: tức ông Nguyễn Duy Hiệu người làng Thanh Hà, xã Diên Phước (thuộc huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam) lãnh đạo phong trào Cần Vương ở Quảng Nam năm 1885. Sau khi nghĩa quân bị tan rã, ông bị Nguyễn Thân bắt ở núi Phúc Sơn (1888) và bị giặc Pháp kết án tử hình.
(3). Ông Nguyên soái tức ông Mai Xuân Thưởng, người làng Phú Lạc, huyện Bình Khê, tỉnh Bình Định, khởi
1. Rủ nhau xem cảnh Kiếm Hồ
Xem cầu Thê Húc, xem chùa Ngọc Sơn (1)
2. Đài Nghiên, tháp bút chưa mòn
Hỏi ai xây dựng nên non nước này. (2)

1. Hỡi cô đội nón ba tầm
Có về Yên Phụ hôm rằm lại sang
2. Phiên rằm chợ chính Yên Quang (3)
Yên Hoa anh đợi hoa nàng mới mua (4)

(1). Thê Húc: có nghĩa là ánh mặt trời ban mai đậu lại.
(2). Đài Nghiên, tháp Bút: do danh sĩ Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào giữa thế kỷ 19.
(3). Yên Quang: tên một làng cũ ở phía nam hồ Trúc Bạch thuộc tổng Yên Thành, huyện Vĩnh Thuận cũ (nay thuộc Hà Nội)
(4). Yên Hoa: là tên cũ làng Yên Phụ
1. Ớt cay là ớt Định Công
Nhãn ngon là loại nhãn lồng làng Quang. (1)

1. Vải Quang, húng Láng, ngổ Đầm
Cá rô Đầm Sét, sâm cầm Hồ Tây. (2)

1. Thanh trì buôn bán mọi nơi
Đồng Nhân, Thúy Ái là nơi chăn tằm.
2. Làng Mơ thì bán rượu tăm
Sở lờ cua ốc, quanh năm đủ đời (3)

(1). Làng Quang: tức làng Thanh Liệt, Hà Nội.
(2). Đầm Sét: là một đoạn của sông Kim Ngưu cũ, trước kia nối liền với Hồ Tây.
(3). Thanh Trì: làng ở ven sông Hồng, nhân dân thường làm nghề buôn bán. Làng này còn nổi tiếng về làm bánh cuốn.
– Đ1. Mình về đường ấy thì xa
Để anh bắc cầu sông cái về qua Ninh Bình
2. Đất Ninh Bình có chùa Non Nước
Núi Phi Diên, Hồi Hạc xung quanh.
Em về em nhớ quê anh. (1)

(1). Núi Non Nước (núi Dục Thúy): trên đó có chùa Non Nước.
– Núi Phi Diên (núi Cánh Diều), núi Hồi Hạc (núi Gối Hạc): là những thắng cảnh của Ninh Bình
1. Ai lên nhắn chị hàng bông
Có muốn lấy chồng thì xuống Nguyệt Viên
2. Nguyệt Viên lắm thóc, nhiều tiền
Lại có sông liền tắm mát, nghỉ ngơi.
3. Chiều chiều ba dãy cá tươi
Chẳng ăn cũng thiệt, chẳng chơi cũng hoài. (1)

1. Muốn ăn cá bống kho gừng
Thì về Kẻ Mỹ đánh thừng với anh (2)

(1). Nguyệt Viên: nay thuộc xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
(2). Kẻ Mỹ: Làng Mỹ Đà, xã Hoằng Anh, huyện Hoằng Hóa, Thanh Hóa.
1. Ai về nhớ vải Định Hòa
Nhớ cau Hổ Bái, nhớ cà Đan Nê
2. Nhớ dừa Quảng Hán, Lưu Khê
Nhớ cơm chợ Bản, thịt dê Quán Lào. (1)

1. Đông Thành là mẹ là cha
Đói cơm, rách áo thì ra Đông Thành. (2)

1. Phủ Quỳ đi có về không
Mồ xanh vợ để tang chồng là đây. (3)

(1). Các địa phương trên đều thuộc huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hóa.
(2). Đông Thành: tức huyện Yên Thành, Nghệ An là huyện nhiều lúa nhất tỉnh, tục ngữ có câu: “Ngệ: Yên Thành, Thanh: Nông Cống”
(3). Phủ Quỳ: tức huyện Quỳ Châu, Nghệ An, trước kia là nơi nước độc.
ồng Nhân, Thúy Ái: hai làng này cũng ở ven sông Hồng.
– Làng Mơ: tức là làng Hoàng Mai, Bạch Mai, Hà Nội.
– Sở lờ: tức làng Sở Thượng. Thời xưa đa số nhân dân đi mò cua, bắt ốc và làm nghề đan lờ.
1. Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu.
Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm
2. Nào ai đi chợ Thanh Lâm
Mua anh một áo vải thâm hạt dền. (1)

1. Cô kia thắt dải lưng xanh
Có về làng Vĩnh với anh thì về
2. Làng Vĩnh có cây bồ đề
Có sông tắm mát có nghề làm gai. (2)

(1). Đồng Tỉnh: là nơi chuyên bán thuốc lào, Huê Cầu: tức Xuân Cầu, trước thuộc tỉnh Bắc Ninh, sau thuộc Hưng Yên, Thanh Lâm: thuộc Hải Dương.
(2). Làng Vĩnh: nay thuộc thôn Cát Tường, xã An Hòa, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
1. Dịu dàng nết đất An Dương
Xưa nay là chốn văn chương nổi tài (1)
2. Nhất đẹp là gái làng Cầu (2)
Khéo ăn, khéo mặc, khéo hầu mẹ cha.

1. Lênh đênh qua cửa Thần Phù (3)
Khéo tu thì nổi, vụng tu thì chìm.

(1). An Dương: thuộc xã Tân Tiến, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Xưa kia có nhiều người học giỏi, lắm thầy đồ.
(2). Làng Cầu: tức làng Lam Cầu, huyện Duy Tiên, Hà Nam.
(3). Thần Phù: thuộc huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Xưa kia Thần Phù là một cửa bể hay có sóng dữ.
1. Ai về khe Mọ cùng đi (1)
Đồng bằng thì ít, rú ri thì nhiều.
1. Sa Nam trên chợ dưới đò (2)
Bánh đúc hai dãy, thịt bò mê thiên
Muốn ăn mà nỏ (chẳng) có tiền.

1. Ai về Hà Tĩnh thì về
Mặc lụa chợ Hạ, uống nước chè Hương Sơn. (3)

1. Đức Thọ gạo trắng nước trong (4)
Ai về Đức Thọ thong dong con người.

(1). Khe Mọ: thuộc xã Thanh Hương, huyện Thanh Chương, Nghệ An.
(2). Sa Nam: thị trấn Nam Đàn hiện nay thuộc tỉnh Nghệ An.
(3). Chợ Hạ: tức vùng Châu Phong, huyện Đức Thọ, Hương Sơn: một huyện của Hà Tĩnh.
(4). Đức Thọ: huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh.
1. Gà nào hay bằng gà Cao Lãnh
Gái nào bảnh bằng gái Tân Châu
2. Anh thương em chẳng ngại sang giầu
Mứt hồng đôi lượng (lạng), trà tầu đôi cân. (1)

1. Ai đua sông trước thì đua
Sông sau có miếu thờ vua thì đừng. (2)

1. Chẻ tre bện sáo cho dày
Ngăn ngang sông Mỹ có ngày gặp nhau. (3)

(1). Cao Lãnh: thuộc Đồng Tháp Mười. Tân Châu: thuộc An Giang đối mặt với Đồng Tháp Mười.
(2). Sông Trước: sông Tiền Giang
– Sông Sau: sông Hậu Giang
(3). Sông Mỹ: sông Mỹ Tho thuộc tỉnh Tiền Giang.
1. Đất Châu Thành anh ở
Xứ Cần Thơ nọ em về
2. Bấy lâu sông cận, biển kề
Phân tay mai trước (trúc) dầm dề hột châu. (1)

1. Ngó qua bên cảnh Tô Châu (2)
Thấy em gánh nước trên đầu giắt trâm.

(1). Cần Thơ: thuộc tỉnh Hậu Giang.
(2). Tô Châu: thuộc Hà Tiên, Kiên Giang.

III. TÌNH YÊU NAM NỮ

1. Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

1. Chăn kia nửa đắp nửa hờ
Gối kia nửa đợi, nửa chờ duyên em.

1. Tình anh như nước dâng cao
Tình em như dải lụa đào tẩm hương.

1. Thương em vô giá quá chừng,
Trèo non quên mệt, ngậm gừng quên cay.

1. Chẳng chua cũng thể là chanh
Chẳng ngọt cũng thể cam sành chín cây
2. Muốn cho có đấy có đây
Sơn lâm chưa dễ một cây nên rừng.
1. Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu.

1. Ai về cho em về theo
Ngó truông truông rậm, ngó đèo đèo cao.

1. Muốn sang nhưng ngại vắng thuyền
Muốn về bên nớ nhưng duyên lỡ rồi!

1. Ước gì sông rộng một gang
Bắc cầu dải yếm để chàng sang chơi.

1. Cô kia đứng ở bên sông
Muốn sang anh ngỏ cành hồng cho sang.

1. Vì tình anh phải đi đêm
Ngã năm, bảy cái, đất êm hơn giường.
1. Anh còn son, em cũng còn son
ước gì ta được làm con một nhà.

1. Trăm năm ghi tạc chữ “đồng”
Dù ai thêu phượng, vẽ rồng mặc ai.

1. Lòng em đã quyết thi hành
Đã cấy thì gặt với anh một mùa.

1. Ước ao ăn ở một nhà
Ra vào đụng chạm kẻo mà nhớ thương.

1. Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm ra ván nát, thuyền thì long đanh.
1. Đôi ta lên thác xuống ghềnh
Em ra đứng mũi cho anh chịu sào.

1. Xa xôi dịch lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ.

1. Chuồn chuồn mắc phải tơ vương
Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng.

1. Bây giờ mận mới hỏi đào
Vườn hồng đã có ai vào hay chưa?
2. Mận hỏi thì đào xin thưa
Vườn hồn có lối nhưng chưa ai vào.
1. Thân em như tấm lụa đào
Còn nguyên hay đã xé vuông nào cho ai?

1. Thân em như tấm lụa đào,
Dám đâu xé lẻ vuông nào cho ai
2. Em vin cành trúc, em tựa cành mai
Đông đào tây liễu, biết ai bạn cùng!

1. Thân em như ớt chín cây,
Càng tươi ngoài vỏ, càng cay trong lòng.

1. Thân em như hạt mưa rào
Hạt rơi xuống giếng, hạt vào vườn hoa.
2. Thân em như hạt mưa sa
Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày.
1. Em về cắt rạ, đánh tranh
Chặt tre, trẻ lạt cho anh lợp nhà
2. Sớm khuya hòa thuận đôi ta
Hơn ai gác tía, lầu hoa một mình.

1. Xa xôi chi nữa mà lầm,
Phải hương hương bén, phải trầm trầm thơm.

1. Dẫu mà không lấy được em
Anh về đóng cửa cài rèm đi tu.
2.- Tu mô cho em tu cùng,
May ra thành Phật thờ chung một chùa.
1. Thấy em anh cũng muốn chào,
Sợ lòng bác mẹ cây cao lá dài.

1. Thầy em anh cũng muốn thương
Sợ lòng bác mẹ soi gương chẳng tường.

1. Đôi ta như lúa đòng đòng
Đẹp duyên nhưng chẳng được lòng mẹ cha.
2. Đôi ta như chỉ xe ba,
Thầy mẹ xe ít đôi ta xe nhiều.

1. Mưa từ trong núi mưa ra,
Mưa khắp thiên hạ mưa ra chùa Thầy
2. Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ non.
1. Thương em anh cũng muốn thương
Nước thì muốn chảy nhưng mương chẳng đào
2. Em về lo liệu thế nào,
Để cho nước chảy lọt vào trong mương.

1. Đôi ta như đũa trong kho,
Không tề, không tiện, không so cũng bằng
2. Đôi ta như thể con bài,
Đã quyết thì đánh, đừng nài thấp cao
3. Đôi ta như đá với dao,
Năng liếc năng sắc, năng chào năng quen.
1. Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng
2. Chưa chồng anh kiếm chồng cho,
Chưa con anh kiếm con cho mà bồng.

1. Chim khôn mắc phải lưới hồng,
Hễ ai gỡ được đền công lạng vàng,
2. Đền vàng anh chẳng lấy vàng
Hễ anh lấy được thì nàng lấy anh.

1. Cô kia đi đường với ta
Trồng bông bông tốt, trồng cà cà sai
2. Cô đi đường ấy với ai?
Trồng bông bông héo, trồng khoai khoai hà.
1. Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi.

1. Mặt trời đã xế về tây
Hỡi cô cắt cỏ bên đầy bên vơi
2. Cô còn cắt nữa hay thôi?
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

1. Đường xa xa thật là xa!
Mượn mình làm mối cho ta một người.
2. Một người mười tám đôi mươi,
Một người vừa đẹp, vừa tươi như mình.
1. Vào vườn hái quả cau xanh
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu,
2. Trầu này têm những vôi tàu
Giữa đệm cát cánh, hai đầu quế cay.
3. Trầu này ăn thật là say
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng.
4. Dù chẳng nên đạo vợ chồng,
Xơi dăm ba miếng cho lòng nhớ thương.
5. Cầm lược lại nhớ đến gương,
Cầm khăn nhớ túi, nằm giường nhớ nhau.
1. Trầu này trầu quế, trầu hồi
Trầu loan, trầu phượng, trầu tôi, trầu mình.
2. Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu nhân trầu ngãi, trầu mình lấy ta.
3. Trầu này têm tối hôm qua
Giấu cha giầu mẹ, đem ra cho chàng.
4. Trầu này không phải trầu hàng,
Không bùa không thuốc, sao chàng không ăn?
5. Hay là chê khó chê khăn?
Xin chàng đứng lại mà ăn miếng trầu.
1. Trầu xanh, cau trắng, chay vàng
Cơi trầu bịt bạc, thiếp chàng ăn chung
2. Trầu xanh, cau trắng, chay hồng
Vôi pha với nghĩa, thuốc nồng với duyên.

1. Trầu không ăn vôi ắt là trầu nhạt
Cau không hạt ắt miếng cau già
2. Mình không lầy ta ắt là mình thiệt,
Ta không lấy mình ta biết lấy ai?
1. Sáng ngày tôi đi hái dâu
Gặp hai anh ấy ngồi câu thạch bàn
2. Hai anh đứng dậy hỏi han
Hỏi rằng cô ấy vội vàng đi đâu?
3. Thưa rằng tôi đi hái dâu
Hai anh mở túi đưa trầu cho ăn.
4. Thưa rằng bác mẹ tôi răn
Làm thân con gái chớ ăn trầu người.
1. Hôm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
2. Em nhặt thì cho anh xin
Hay là em để làm tin trong nhà?
3. Áo anh sứt chỉ đường tà
Vợ anh chưa có, mẹ già chưa khâu
4. Áo anh sứt chỉ đã lâu,
Mai mượn cô ấy ngồi khâu cho cùng
5. Khâu rồi anh sẽ trả công
Đến khi lấy chồng anh sẽ giúp cho
6. Giúp cho một thúng xôi vò,
Một con lợn béo, một vò rượu tăm.
7. Giúp em đôi chiếu em nằm
Đôi chăn em đắp, đôi tằm em đeo
8. Giúp em quan tám tiền treo,
Quan năm tiền cưới lại đèo buồng cau.
1. Hỡi cô tát nước quang mây!
Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng.
2. Cây ngô đồng cành cao cành thấp
Ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang
3. Quả dưa gang ngoài xanh trong trắng
Quả mướp đắng ngoài trắng trong vàng,
4. Kể từ ngày anh gặp được nàng
Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ.
1. Đêm qua trời sáng trăng rằm
Anh đi qua cửa, em nằm không yên.

1. Vì mây cho núi lên trời
Vì cơn gió thổi hoa cười với trăng.
2. Vì chuôm cho cá bén đăng
Vì tình nên phải đi trăng về mờ.

1. Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng than thở với mây vài lời
2. Nữa mai rồng ngược mây xuôi,
Biết bao giờ lại nối lời nước non?
1. Đầu năm ăn quả chanh yên
Cuối năm ăn bưởi cho nên đèo bòng.
2. Vì cam cho quýt đèo bòng,
Vì em nhan sắc cho lòng anh thương.

1. Con dao vàng dọc lá trầu vàng
Mắt anh anh liếc, mắt nàng nàng đưa.

1. Hoa thơm hoa ở trên cây,
Đôi mắt em lúng liếng, dạ anh say lừ đừ.

1. Hoa thơm xuống đất cũng thơm
Em giòn, rách áo, đói cơm cũng giòn.
1. chớ chê em xấu, em đen
Em như nước đục, đánh phèn lại trong.

1. Trèo lên cây khế nửa ngày
Ai làm chua xót lòng này khế ơi!ư
2. Mặt trăng sánh với mặt trời
Sao Hôm sánh với sao Mai chằng chằng.

1. Mình ơi có nhớ ta chăng?
Ta như sao vượt chở trăng giữa trời.
1. Vào vườn trảy quả cau con
Anh thấy em giòn muốn kết nhân duyên
2. Hai má có hai đồng tiền,
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa.
3. Anh đã có vợ con chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào
4. Mẹ già anh ở nơi nao?
Để em tìm vào hầu hạ thay anh.

1. Thấy anh như thấy mặt trời
Chói chang khó ngó, trao lời khó trao.
1. Chả tham nhà ngói rung rinh,
Tham về một nỗi anh xinh miệng cươi.

1. Tình thương quán cũng như nhà,
Lều tranh có nghĩa hơn tòa ngói xây.

1. Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
2. Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái nón đội đầu như thể hoa sen.

1. Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.
1. Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh

1. Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên.
2. Ba thương má lúm đồng tiền,
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
3. Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
4. Bảy thương nết ở khôn ngoan,
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
5. Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ai.
1. Sáng trăng suông sáng cả bờ sông
Ta được cô ấy, ta bồng ta chơi
2. Ta bồng ta tếch lên trời
Hỏi ông Nguyệt Lão: “tốt đôi chăng là?”

1. Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà gói khăn
2. Ước gì anh hóa ra chăn,
Để cho em đắp, em lăn cùng giường.
3. Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi.
4. Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.
1. Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng.
2. Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
3. Xây dọc anh lại xây ngang,
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

1. Gối mềm, gối chiếu không êm,
Gối lụa không mềm bằng gối tay em.

1. Lên non thiếp cũng lên theo,
Tay vịn chân trèo, hái trái nuôi nhau.
1. Cái quạt mười tám cái nan
Ở giữa phất giấy, hai nan hai đầu
2. Quạt này em để che đầu,
Đêm đêm đi ngủ chung nhau quạt này.
3. Ước gì chung mẹ chung thầy
Để em giữ cái quat này làm thân.
4. Rồi ta chung gối, chung chăn
Chung quần, chung áo, chung chăn đội đầu
5. Nằm thời chung cái giường Tàu
Dậy thời chung cả hộp trầu, ống vôi.
6. Ăn cơm chung cả một nồi
Gội đầu chung cả dầu hồi, nước hoa
7. Chải đầu chung cái lược ngà,
Soi gương chung cả nhành hoa giắt đầu.
1. Chàng về thiếp cũng xin theo
Qua sông nỉ nước, qua đèo nỉ non.

1. Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo,
Thất bát sông cũng lội,
Tứ cửu đèo cũng qua. (1)

1. Bao giờ cạn lạch Đồng Nai,
Nát chùa Thiên Mụ mới sai tấc nguyền. (2)

1. Hồng Hà nước đỏ như son
Chết đi thì chớ, sống còn lấy anh.

(1). Còn có câu:
Yêu nhau tam tứ núi cũng trèo
Ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua.
(2). Đồng Nai: tên một con sông ở Nam Bộ.
– Thiên Mụ: chùa Thiên Mụ thuộc thành phố Huế.
1. Thủy chung em giữ trọn lời,
Chết đi thì chịu, lìa đôi không lìa.

1. Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió gió đừng rung cây.
2. Rung cây, rung cội, rung cành,
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng.

1. Ai xinh thì mặc ai xinh
2. Ông tơ chỉ quyết xe mình với ta.

1. Đôi ta như thể con tằm,
Cùng ăn một lá cùng nằm một nong
2. Đôi ta như thể con ong
Con quấn, con quýt, con trong con ngoài.

1. Yêu nhau chẳng lọ chiếu giường
Dẫu rằng tầu lá che sương cũng tình.

1. Yêu nhau gánh gạch về đây
Chẳng đắp nên núi cũng xây lên thành.

1. Tay bưng đĩa muối tay bợ sàng rau
Thủy chung như nhất, sang giầu mặc ai.

1. Đôi ta như lúa phai màu
Đẹp duyên thì lấy, tham giầu làm chi.

1. Đôi ta ở đất làm thừng (1)
Trăm chắp ngàn nối, xin đừng quên nhau.

(1). Có bản chép: biết nhau từ thủa buôn thưng.
1. Tay nâng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau.

1. Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nấu quả mơ chua trên rừng
2. Em ơi chua ngọt đã từng
Non xanh nước bạc ta đừng quên nhau.

1. Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến, cho anh quen nàng.
2. Tơ tằm đã vấn thì vương
Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.
1. Chiếc buồm nho nhỏ,
Ngọn gió hiu hiu.
2. Nay nước thủy triều
Mai lại nước rươi…
3. Sông sâu sóng cả em ơi!
Chờ cho sóng lặng
Buồm xuôi, ta xuôi cùng.
4. Trót đa mang vào kiếp bềnh bồng
Xuống ghềnh lên thác, một lòng ta thương nhau.

5. Thương ai da diết diết da
Áo em hai vạt trải ra anh nằm.
1. Thương cha thương mẹ có khi
Thương em lúc đứng, lúc đi, lúc ngồi
2. Thương cha thương mẹ có hồi.
Thương em lúc đứng, lúc ngồi cũng thươngl

1. Thuyền ơi có nhớ bến chăng?
Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền.

1. Thiếp xa chàng như rồng nọ xa mây,
Như con chèo bẻo xa cây măng vòi.

1. Núi cao chi lắm núi ơi!
Núi che mặt trời không thấy người thương.
1. Vì ai cho thiếp võ vàng?
Vì chàng tư lự, hoa tàn nhị rơi
2. Cực lòng thiếp lắm chàng ơi!
Biết rằng lên ngược, xuống xuôi đằng nào?

1. Thẩn thơ đứng gốc cây mai
Bóng mình lại ngó bóng ai mình lầm.
2. Một chờ, hai đợi, ba trông
Bốn thương, năm nhớ, bảy tám chín mong, mười tìm!

1. Thương em nỏ (chẳng) biết mần răng
Mười đêm ra đứng trông trăng cả mười.
1. Chiều chiều ra đứng gốc cây
Trông chim bay liệng, trông mây lưng trời.
2. Trông xa xa tít xa vời,
Những non cùng nước, những đồi cùng cây.

1. Sông sâu cá lội mất tăm
Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ.
2. Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa đào…
3. Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em muộn, má đào em phai.
1. Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
2. Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
3. Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ?

1. Chiều chiều ra ngõ đứng trông
Ngõ thì thấy ngõ, người không thấy người.

1. Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?
1. Thương thương, nhớ nhớ, sầu sầu
Một ngày ba bận ra cầu đứng trông
2. Thấy người nam, bắc, tây, đông
Thấy người thiên hạ mà không thấy chàng.

1. Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi.
2. Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân.
3. Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa.
1. Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than.

1. Nhớ ai nhớ mãi thế này?
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn.

1. Nhớ ai như điếu thuốc lào
Đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên.

1. Thà rằng chẳng biết cho xong
Biết ra như xúc như đong lấy sầu.

1. Qua đình ngả nón trông đình
Đình bao nhiêu ngói, thương mình bấy nhiêu.
1. Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng
Nước uống cầm chừng để dạ thương em.

1. Thương em chẳng biết để đâu
Để vào tay áo, lâu lâu lại dòm.

1. Áo xông hương của chàng vắt mắc
Đêm em nằm em đắp lấy hơi,
2. Gửi khăn, gửi túi, gửi lời
Gửi đôi chàng mạng cho người đằng xa (1)
3. Vì mây cho núi lên xa
Mây cao mù mịt, núi nhòa xanh xanh.

(1). Chàng mạng: một thứ lưới bằng sợi hay bằng gai đan mắt võng để đặt đồ đạc vào trong đó gánh đi.
1. Lá này gọi lá xoan đào
Tương tư gọi nó thế nào hở em?
2. Lá khoai anh ngỡ lá sen
Bóng trăng anh ngỡ bóng đèn em khêu.

1. Mình em như cây thầu dầu,
Ngoài tươi, trong héo, giữa sầu tương tư
2. Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy, dậy sờ thì không.

1. Em ôm bó mạ xuống đồng
Miệng ca, tay cấy mà lòng nhớ ai.
1. Ai về đường ấy hôm mai
Gửi dăm điều nhớ, gửi vài điều thương
2. Gửi cho đến chiếu đến giường
Gửi cho đến chốn buồng hương em nằm.

1. Cá buồn cá lội tung tăng
Người buồn người biết đãi đằng cùng ai?
2. Phương đông chưa rạng sao mai
Đồng hồ chưa cạn, biết lấy ai bạn cùng? (1)

1. Chàng về thời thiếp xin đưa
Cầu trời đừng nắng, chớ mưa trơn đường.

(1). Đây là đồng hồ nước, ngày xưa đo thời gian bằng cách cho nước rỏ từng giọt.
1. Chẳng chè, chẳng chén sao say
Chẳng thương, chẳng nhớ sao hay đi tìm?
2. Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông.

1. Đói lòng ăn nửa quả sim
Uống lưng bát nước, đi tìm người thương.
2. Người thương ơi hỡi người thương!
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng?

1. Ra về tay nắm lấy tay
Mặt nhìn lấy mặt, lòng say lấy lòng.
1. Ai về ai ở mặc ai
Ta như dầu đượm thắp hoài năm canh

1. Gió vàng hiu hắt năm canh
Đường xa, dặm vắng xin anh đừng về
2. Mảnh trăng đã trót lời thề
Làm chi để gánh nặng nề riêng ai.

1. Anh về em nắm cổ tay
Em dặn câu này anh chớ có quên.
2. Đôi ta đã trót lời nguyền
Chớ xa xôi mặt mà quên mảng lòng.
1. Mình về ta chẳng cho về
Ta nắm lấy áo ta đề câu thơ
2. Câu thơ ba chữ rành rành:
Chữ “trung”, chữ “hiếu”, chữ “tình” là ba
3. Chữ “trung” thì để phần cha
Chữ “hiếu” phần mẹ đôi ta chữ “tình”.

1. Mình về có nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười.
2. Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.
1. Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng.
2. Ai đi muôn dặm non sông
Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy.

1. Nghĩ xa thôi lại nghĩ gần
Làm thân con nhện mấy lân vương tơ.
2. Chắc đâu trong đục mà chờ
Hoa thơm mất tuyết nương nhờ vào đâu?

1. Chàng về để áo lại đây
Phòng khi em nhớ, cầm tay đỡ buồn.
1. có nên thì nói là nên
Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng
2. Làm chi cho dạ ngập ngừng
Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu.

1. Có yêu thì nói rằng yêu
Chẳng yêu thì nói một điều cho xong
2. Làm chi dở đục dở trong
Lờ lờ nước hến cho lòng tương tư.

1. Tới đây phân rẽ đôi đàng
Của anh anh gánh, của nàng nàng bưng.
1. Căn duyên còn đó hỡi trời?
Gió nam phảng phất mát rồi lại không!

1. Chẳng yêu nhau được thì thôi
Xin chàng đừng tẩy nước vôi mà nồng
2. Chẳng yêu nhau được thì đừng
Xin chàng chớ tẩy nước gừng mà cay.

1. Yêu nhau xin quyết một lòng
Đậu ngâm ra giá đãi đằng nhau chi?

1. Mấy lời em nói
Anh hong khói để bền
Dầu trăm năm nữa không quên lời nào.
1. Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
2. Thấy em nằm đất anh thương
Anh ra kẻ chợ đóng giường tám thang
3. Bốn góc thì anh thếp vàng
Bốn chân thếp bạc, tám thang chạm rồng
4. Bây giờ phải bỏ giường không
Em đi lấy chồng phí cả công anh.

1. Yêu nhau xa mấy cũng gần
Ghét nhau cách một bàn chân cũng lìa.
1. Từ ngày chưa bén duyên chàng
Như chuông khác tiếng, như vàng pha thau
2. Từ ngày ta bén duyên nhau
Như áo phải dầu, gột cũng chẳng phai
3. Bây giờ chàng đã nghe ai
Áo hoen mặc áo, dầu phai mặc dầu.

1.Trước sao đằm thắm muôn phần
Nay sao đểnh đoảng như cần nấu suông?

1. Tưởng rằng trọn thủy, chọn chung
Không hay như pháo nổ đùng ngang lưng.
1. Đêm qua đêm lạnh đêm lùng
Đêm đắp áo ngắn, đêm chung áo dài.
2. Bây giờ chàng đã nghe ai
Áo ngắn chẳng đắp, áo dài không chung.
3. Bây giờ sự đã nhạt nhùng,
Dấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua?

1. Trăm năm đành lỗi hẹn hò
Cây đa, bến cũ, con đò khác đưa. (1)

1. Cây đa bậc cũ lở rồi
Đò đưa bến khác, bạn ngồi chờ ai?

(1). Còn có câu:
Trăm năm dù lỗi hẹn hò
Cây đa bến cũ, con đò vẫn đưa.
1. Đất sông lại lở xuống sông
Không ai chờ bạn như công ta chờ.

1. Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu cành cây đa
2. Cực lòng em phải nói ra
Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn. (1)

1. Có bạc em tình phụ tiền
Có nhân ngãi mới em quên anh rồi
2. Có oẳn em tình phụ xôi
Có cam phụ quýt, có người phụ ta.

(1). Ở Trung Bộ có câu:
Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no, tắm mát, lên nhành nghỉ ngơi.
Cực lòng Lan lắm, Huệ ơi!
Kiếm nơi mô im mát, Huệ ngồi cho Lan phân
1. Nhớ khi gánh nặng anh chờ
Qua cầu anh đợi, bây giờ em quên.

1. Có quán tình phụ bóng đa
Ba năm quán đổ, cây đa vẫn còn
2. Có lá lốt tình phụ xương sông.
Có chùa bên Bắc, miền Đông dễ tàn.

1. Trách duyên, trách số lỡ làng
Cầm gương gương tối, cầm vàng vàng phai.

1. Trách ai tham phú phụ bần
Tham xa mà bỏ nghĩa gần thủa xưa.
1. Trách người quân tử bạc tình
Chơi hoa rồi lại bẻ cành bán rao. (1)

1. Phận em sao lắm dở dang
Cầm tiêu tiêu gẫy, cầm đàn đứt dây.

1. Thà rằng chẳng biết cho đừng
Biết ra dan díu nửa chừng lại thôi.

1. Đường xa ơi hỡi đường xa
Đem sầu tới bỏ cho ta mà về.

1. Con sông bên lở bên bồi
Một con cá lội mấy người buông câu.

(1). Còn có câu:
Trách người quân tử vô tình
Có gương mà để bên mình biếng soi.
1. Tham vàng bỏ ngãi anh ơi!
Vàng thì ăn hết, ngãi tôi hãy còn.

1. Người sao một hẹn thì nên
Tôi sao chín hẹn thì quên cả mười!

1. Ở chi hai dạ ba lòng
Dạ cam thì ngọt, dạ bòng thì chua.

1. Mưa xuân lác đác vườn đào
Công anh đắp đất, ngăn rào vườn hoa.
2. Ai làm gió táp mưa sa
Cho cây anh đổ, cho hoa anh tàn.
1. Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân
2. Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng anh tiếc lắm thay!
3. Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
4. Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng như cá cắn câu
5. Cá cắn câu biết đâu mà gỡ
Chim vào lồng biết thủa nào ra!
1. Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
2. Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình.
3. Bao giờ cây cải làm đình
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta
4. Công anh chăn nghé đã lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày?

1. Công anh tháng đợi năm chờ
Sao em dứt chỉ, lìa tơ cho đành?
1. Vì ai kim cúc phân ly
Nghĩa nhân gián đoạn chỉ vì tại anh.

1. Công anh lên xuông, xuống lên
Mòn đàng chết cỏ, nỏ (chẳng) nên chuyện gì.

1. Công anh bắt tép nuôi cò
Cò ăn, cò lớn, cò dò lên cây

1. Bấy lâu lên ngọn sông Tân
Muốn tìm cá nước phải lần trời mưa
2. Tiếc công đắp đập be bờ
Để ai quẩy đó, mang lờ đến đơm.
1. Tiếc công rày xuống, mai lên
Mòn đàng chết cỏ không nên tự trời.
2. Tưởng rằng kèo cột ở đời
Ai ngờ cột rã, cột rời đôi phương.

1.Thân em như cái quả xoài trên cây
Gió đông, gió tây, gió nam, gió bắc,
2. Nó đánh lúc la lúc lắc trên cành
Một mai vô tình rụng xuống biết vào tay ai?
3. Kìa khóm trúc, nọ nhành mai
Ông Tơ bà Nguyệt xe hoài chẳng thương!
1. Đồng tiền Vạn Lịch thích bốn chữ vàng
Anh tiếc công anh gắn bó với nàng bấy lâu.
2. Bây giờ nàng lấy chồng đâu?
Để anh giúp đỡ trăm cau nghìn vàng
3. Trăm cau anh để cúng nàng
Nghìn vàng anh đốt giải oan lời thề.
4. Xưa kia nói nói thề thề
Bây giờ bẻ khóa, trao chìa cho ai?
5. Bây giờ nàng đã nghe ai
Gặp anh ghé nón, chạm vai chẳng chào!
1. Hai ta làm bạn thong dong
Như đôi đũa ngọc nằm trong mâm vàng
2.Bởi chưng thầy mẹ nói ngang
Cho nên đũa ngọc, mâm vàng xa nhau.

1. Trách cha, trách mẹ nhà chàng
Cầm cân chẳng biết là vàng hay thau
2. Thực vàng chẳng phải thau đâu
Đừng đem thử lửa để đau lòng vàng.

1. Trách cha trách mẹ muôn phần
Ngồi bên đống bạc mà cân lấy chì.
1. Đã mang lấy cái thân tằm
Không vương tơ nữa cũng nằm trong tơ.

1. Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già.
2. Bao giờ xum họp một nhà
Con lợn lại béo, cau già lại non.

1. Đôi ta cùng bạn chăn trâu
Cùng mặc áo vá nhuộm nâu một hàng
2. Bao giờ cho gạo bén sàng
Cho trăng bén gió, cho nàng bén anh.
1. Ai làm miếu nọ xa đình
Hạc xa hương án, đôi đứa mình đừng xa.

1. Lìa cây, lìa cội, ai nỡ lìa hoa
Lìa người bội bạc chớ đôi ta đừng lìa.

1. Chưa quen đi lại cho quen
Chưa gần đi lại vài phen cho gần.

1. Hai ta hái củi một rừng
Bứt dâu một cội, xin đừng nghe ai
2. Hai ta như rượu với nem
Đang say ngây ngất ai gièm chớ xa.
1. Khi say một chén cũng say
Khi nên tình nghĩa một ngày cũng nên.

1. Muốn cho biển hẹp như ao
Bắc cầu đòn gánh mà trao biển tình.

1. Khi xưa ai biết ai đâu
Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen.
2. Khi xưa biển rộng sông dài
Sao lưới chả mắc, sao chài chả quăng?
3. Bây giờ sông đã chắn đăng
Còn mang lưới mắc, chài quăng làm gì!
1. Mình ơi ta hỏi thực mình
Còn không hay đã chung tình với ai?

1. Mình về sao được mà về
Mặt trăng còn đó, lời thề còn đây

1. Một cành tre, năm bảy cành tre
Đẹp duyên thì lấy chớ nghe họ hàng.

1. Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
2. Con mình những đất cùng gio
Ta đi gánh nước tắm cho con mình.
1. Nước sông Gianh vừa trong vừa mát
Truông Quảng Bình nhỏ cát dễ đi
2. Dang ta ngứt ngọn từ bi
Cho lòng bên nớ, bên ni kết nguyền.

1. Nước trong nước chảy quanh chùa
Không yêu ta cũng bỏ bùa cho yêu.

1. Ngày ngày ra đứng mà trông
Bạn chả thấy bạn, tình không thấy tình.

1. Nhớ lời giao hẹn khi chiều
Dầu mưa sa, chớp rạch cũng liều mà đi.
1. Ra về lòng lại dặn lòng
Chanh chua chớ phụ, ngọt bồng chớ ham.

1. Tương tư chẳng ốm cũng sầu
Con ruồi đậu mép chẳng đau cũng buồn.

1. Thuyền ai lên xuống bến sông
Phải duyên, phải vợ, phải chồng thì vô.

1. Bóng trăng em tưởng bóng đèn
Bóng cây em tưởng bóng thuyền anh sang.

1. Thuyền chài, thuyền lái, thuyền câu
Biết thuyền nhân ngãi ở đâu mà tìm.
1. Thương mình mình chẳng biết cho
Cầm bằng gánh nặng mà dò đường trơn

1. Thương thương nhớ nhớ sầu sầu
Cơm ăn nỏ (không) được lấy trầu ngậm hơi.

1. Trăng tròn chỉ có đêm rằm
Tình ta tháng tháng, năm năm vẫn tròn.

1. Trời mưa gió rét kìn kìn
Đắp đôi dải yềm hơn nghìn chăn bông.

1. Yêu nhau cởi áo cho nhau
Về nhà dối mẹ qua cầu gió bay.
1. Không thương nỏ nói khi đầu
Làm chi dan díu giữa cầu mà buông.

1. Làm chi cho dạ ngập ngừng
Đã có nơi đấy thì đừng nơi đây
2. Thôi đừng bắt cá hai tay
Cá thì xuống bể, chim bay về ngàn.

1. Những là lên miếu xuống nghè
Để tôi đánh trúc, đánh tre về trồng
2. Tưởng rằng nên vợ, nên chồng
Nào ngờ nói thế mà không có gì!
1. Những lời mình nói với ta
Sông sâu hóa cạn, đường xa hóa gần
2. Ai ngờ ra dạ lần khân
Sông cạn lại thẳm, đường gần lại xa.

1. Tưởng giếng sâu nối dây dài
Ai ngờ giếng cạn tiếc hoài sợi dây.

1. Anh như táo rụng sân đình
Em như gái dở đi rình của chua

1. Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ghé cây trầu một bên.
2. Mai sau trầu nọ lớn lên
Cau kia ra trái làm nên cửa nhà.
1. Anh về em chẳng dám cầm
Dang tay đưa bạn, ruột bầm như dưa.

1. Anh ơi đi lại cho dày
Thầy mẹ không gả em bày mưu cho.

1. Anh về em những trông theo
Trông cho khuất núi, qua đèo mới thôi.

1. Bởi thương nên dạ mới trông
Không thương em đã lấy chồng còn chi.

1. Cách sông cách núi cho cam
Cách một chỗ lội thiếp chàng xa nhau.
1. Cây cao mấy trượng cũng trèo
Đường xa mấy dặm cũng theo anh về.

1. Dầu chàng năm bảy mặt con
Thiếp đôi ba lứa vẫn còn nhớ nhau.

1. Đã thương cắt tóc trao tay
Tha hồ én liệng, nhạn bay mái ngoài.

1. Em như cây quế trong rừng
Thơm cay ai biết, ngát lừng ai hay!

1. Em về em lại ra ngay
Chàng đừng tưởng gió trông mây mà phiền.
1. Gặp anh em nở nụ cười
Vắng anh em lại giọt vơi giọt đầy.

1. Gặp em thì gặp cho lâu
Đừng gặp một ít thêm sầu lòng em.

1. Gần nhà mà chẳng sang chơi
Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu
2. Bắc cầu anh chẳng đi cầu
Để tốn công thợ, dễ sầu lòng em.

1. Mình em như cá giữa rào
Kẻ chài, người lưới biết vào tay ai.
1. Giả đò bắt ốc, hái rau
Đi ngang qua ngõ thấy nhau kéo buồn
2. Giả đò mua khế bán chanh
Giả đi đòi nợ thăm anh kẻo buồn.

1. Lòng lại dặn lòng dù non mòn biển cạn
Dạ lại dặn dạ dù đá nát tàn phai
2. Dù cho trúc mọc thành mai
Em cũng không xiêu lòng lạc dạ, nghe ai phỉnh phờ.

1. Mình về mình bỏ ta đây
Như con tơ rối gỡ ngày nào xong.
1. Một lòng chỉ quyết lấy anh
Ong bay buớm lượn chung quanh mặc trời.

1. Một lời thề không duyên thì nợ
Hai lời thề không vợ thì chồng
2. Ba lời thề khơi núi lấp sông
Em quyết đi theo anh cho trọn đạo kẻo luống công anh đợi chờ.

1. Một miếng trầu năm ba lời dặn
Một chén rượu năm bảy lời giao
2. Anh chớ nghe ai sóng bể ba đào
Em đây giữ niềm tiết hạnh, anh chớ lãng xao em buồn.
1. Một lòng kết tóc xe tơ
Một niềm chỉ đợi chỉ chờ một anh

1. Muốn cho sông cạn đất liền
Kẻo anh đi lại tốn tiền đò giang.

1. Năng mưa thì giếng năng đầy
Anh năng đi lại, mẹ thầy năng thương.

1. Nước chảy xuôi con cá lội ngược
Nước chảy ngược con cá lội ngang
2. Thuyền em xuống bến Thuận An
Thuyền anh lại chảy lên ngàn anh ơi. (1)

(1). Thuận An: thuộc Thừa Thiên.
1. Ngày xem núi cao xanh ngát
Đêm xem trăng, trăng tắt sao mờ
2. Một mình em chừ lòng dạ ngẩn ngơ
Đêm năm canh giường không gối lạnh
biết có chờ được không?

1. Nghe tin anh có vợ rồi
Như ai dội đọi (bát) nước sôi trong lòng

1. Ngó hoài ra tận biển Đông
Thấy mây, thấy nước sao không thấy nàng.

1. Nhớ chàng sáng đứng trông xuôi
Trưa đi ngó ngược, tối ngồi trông ra.
1. Nguồn ân bể ái hẹn hò
một ngày nên nghĩa chuyến đò nên quen
2. Công cha nghĩa mẹ thiếp đền
Xin chàng đừng có kết duyên chốn nào
3. Xin đừng đứng thấp trông cao
Xin đừng tơ tưởng chốn nào hơn đây
4.Xin đừng tham gió bỏ mây
Tham vườn táo rụng bỏ cây nhãn lồng.

1. Vắng mặt nhân ngãi một ngày
Ngang bằng bác mẹ đem đầy biển Đông.
1. Nhớ chàng lắm lắm chàng ơi
Nhớ lời chàng nói, nhớ nơi chàng về
2. Nhớ khi chỉ núi giao thề
Nhớ từ trú quán, nhớ về quê hương.
3. Đêm nằm những nhớ cùng thương
Nói sao cho xiết mọi đường ái ân.

1. Qua cầu dừng bước trông cầu
Cầu bao nhiêu nhịp em sầu bấy nhiêu.

1. Ra về nhớ bạn khóc thầm
Năm thân áo vải ướt đầm cả năm.
1. Sóng sao cho vịt ướt lông
Rùa kêu, đá nổi, thiếp không bỏ chàng.

1. Tiện đây đưa một miếng trầu
Chẳng ăn cầm lấy cho nhau bằng lòng.

1. Thương anh bụng sát tận da
Anh thì không biết tưởng là đói cơm.

1. Em toan tát bể cấy cần
Em toan đánh trúc trống sân nhà chàng
2. Vì đâu duyên phận lỡ làng
Để cho cành bạc lá vàng xa nhau.
1. Lên non cho biết non cao
Thương em đừng kể công lao em buồn.

1. Liệu bề thương được thì thương
Đừng trao gánh nặng giữa đường tội em.

1. Nào khi gánh nặng em chờ
Qua truông em đợi, bây giờ phụ em. (1)

1. Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài.
2. Trông mây mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa.

(1). còn có câu:
Nhớ khi gánh nặng anh chờ
Qua cầu anh đợi bây giờ em quên
1. Trách cha trách mẹ em lầm
Cho nên em phải khóc thầm hôm mai.

1. Trách chàng chẳng dám trách ai
Trách chàng chê nụ hoa nhài không thơm.
2. Ai trắng như bông lòng tôi không chuộng
Người đó đen giòn làm ruộng tôi thương
3. Biết rằng dạ có vấn vương
Để tôi cậy mối tìm đường sang chơi

1. Anh thương em biết nói mần răng (làm sao)
Lấy gió làm quạt lấy trăng làm đèn.
1. Áo đen ai nhuộm cho mình
Cho duyên mình đậm, cho tình anh thương.

1. Bữa ăn có cá cùng canh
Anh chưa mát dạ bằng anh thấy nàng.

1. Đêm năm canh anh ngủ có ba
Còn hai canh nữa anh ra trông trời
2. Trông trời mau rạng đông ra
Để cho bướm chộ (thấy) mặt hoa bướm chào.

1. Đêm nằm ở dưới bóng trăng
Thương cha nhớ mẹ không bằng nhớ em.
1. Đêm qua anh nằm nhà ngoài
Để em thở ngắn than dài nhà trong
2. Ước gì anh được vô phòng
Loan ôm lấy phượng, phượng bồng lấy loan.

1. Em ơi ta nguyện nhau cùng
Răng long, tóc bạc ta đừng quên nhau.

1. Em thì vác cuốc thăm đồng
Anh thì giả cách mang lồng chơi chim
2. Vì em anh phải đi tìm
Xưa nay anh biết chọi chim là gì.
1. Em thương ai nấp bụi nấp bờ
Sớm trông đò ngược, tối chờ đò xuôi
2. Thuyền anh đậu bến lâu rồi
Sao em chưa xuống mà ngồi thuyền anh?

1. Gặp nàng anh nắm cổ tay
Anh yêu vì nết, anh say vì tình
2. Thiên hạ lắm kẻ giầu, xinh
Nhưng duyên chẳng thuận, nhưng tình chẳng ưa.

1. Đấy, đây xứng đáng cũng vừa
Xin đừng kén chọn, lọc lừa nơi nao.
1. Gió đưa gió đẩy bông trang
Ai đưa ai đẩy duyên nàng tới đây
2. Tới đây thì phải ở đây
Bao giờ bén rễ, xanh cây hãy về.

1. Mẹ em khéo đẻ em ra
Đẻ em gốc bưởi cho ta đèo bòng.

1. Mẹ em khéo đẻ em ra
Đẻ em mười bốn, đẻ ta hôm rằm.
2. Đi đâu mà vội mà nhầm
Sao em chẳng đợi hôm rằm cho trong.
1. Răng đen nhoẻn miệng em cười
Dẫu trời đương nực cũng nguôi cơn nồng.

1. Rượu ngon cái cặn cũng ngon
Thương em chẳng luận chồng con mấy đời.

1. Thèm trầu mà chẳng dám xin
Thương em mà chẳng dám nhìn mặt em.

1. Thương em chẳng quản xa gần
Cầu không tay vịn cũng lần mà sang.

1. Thương em như lá đài bi
Ngày thì dãi nắng, đêm thì dầu sương.
1. Khi đi thì bóng đang dài
Giờ về bóng đã nghe ai bóng tròn.

1. Khi đi thì quế chưa trồng
Khi về quế đã đơm bông trổ ngành.

1. Khi xưa một hẹn thì nên
Bây giờ chín hẹn em quên cả mười.

1. Trăng lên đỉnh núi trăng tà
Mình yêu ta thực hay là yêu chơi?
2. Trăng lên đỉnh núi trăng ngời
Yêu thời yêu thực, yêu chơi làm gì!
1. Ai làm con cá bống nó đi tu
Con cá thu nó khóc
2. Con cá lóc nó rầu
Phải chi ngoài biển có cầu
Em ra em vớt cái đoạn sầu cho anh.

1. Anh có thương em thì thương cho trót
Có trục trặc thì trục trặc cho luôn
2. Đừng làm theo thói ghe buồm
Nay về, mai ở cho buồn dạ em.

1. Anh mong gởi cá cho chim
chim bay ngàn dặm, cá chìm biển Đông.
1. Anh đi trên đường Ba Vát (1)
Anh đạp cát, cát nhỏ
2. Anh đạp cỏ, cỏ mòn
Yêu nhau từ độ trăng tròn
Bây giờ trăng khuyết vẫn còn yêu nhau.

1. Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?

1. Anh về đếm hết sao trời
Em đây kết tóc, ở đời với anh.

1. Anh về kiếm vợ cho xong
Em là con tép nhỏ lộn rong khó tìm.

(1). Ba Vát: thuộc huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre.
1. Ăn cơm cũng thấy nghẹn
Uống nước cũng thấy nghẹn
2. Nghe lời em hẹn ra bãi đứng trông
Biển xanh bát ngát nhìn không thấy người.

1. Ân cha nghĩa mẹ chưa đền
Bậu mong ôm gối cuốn mềm theo ai? (1)

1. Bao giờ chợ Lớn hết vôi
Em đây hết đứng hết ngồi với anh
2. Bao giờ đá nổi vông chìm
Muối chua, chanh mặn mới tìm đặng em.

(1). Bậu: bạn.
1. Bậu có chồng chưa, bậu thưa cho thiệt
Kẻo để anh lầm tội nghiệp thân anh
2. Bậu nói với qua bậu không bẻ lựu, hái đào
Lựu đâu bậu bọc, đào nào cầm tay.

1. Bậu về kẻo mẹ bậu trông
Kẻo con bậu khóc kẻo chồng bậu ghen.

1. Biển cạn sông cạn, lòng qua không cạn (1)
Núi lở non mòn, nhớ bạn không quên
2. Đường còn đi xuống đi lên
Tình qua với bậu quyết nên vợ chồng.

(1). Qua: tôi.
1. Bốn mùa bông cúc nở sây
Để coi trời khiến duyên này về ai?

1. Bông ngâu rụng xuống cội ngâu
Em còn phụ mẫu dám đâu tự mình.
2. Bông quỳnh rụng xuống cội quỳnh
Dù ai ngậm ngọc dỗ mình đừng xiêu.

1. Bờ trơn, bờ trợt, bờ sình
Em ơi lỡ hẹn nên anh mới dầm mình ra đi.

1. Bước qua vườn ổi hái trầu
Hỏi thăm lê, lựu, măng sầu chín chưa?
1. Bởi mưa nên lấm
Bởi dặm nên dò
2. Có thương mới đợi mới chờ
Không thương ai ở vật vờ chi đây.
3. Buổi chợ đang đông con cá hồng anh chê lạt
Buổi chợ tan rồi, con tép bạc anh cũng khen ngon.

1. Buồn rầu, buồn rĩ, buồn nỉ, buồn non
Buồn vì một nỗi sớm con muộn chồng.

1. Buồn tình cha chả buồn tình
Không ai lẻ bạn cho mình kiếm đôi
2. Buồn ơi cha chả buồn ơi
Không ai nói chuyện cho tôi đỡ buồn.
1. Bước qua vườn ớt hái trầu
Hỏi thăm lê, lựu, măng sầu chín chưa?

1.Bước xuống ruộng sâu lỡ sầu tấc dạ
Tay ôm bó mạ, nước mắt hai hàng
2. Ai làm lỡ chuyến đò ngang
Cho sông cạn nước đôi đàng biệt ly?

1. Thiếp nhớ chàng tấm phên hư nuột lạt đứt
Chàng nhớ thiếp khi đắng nước, nghẹn cơm
2. Ba trăng là mây mươi hôm
Mai nam vắng trước, chiều nồm quạnh sau.
1. Bướm già thì bướm có râu
Thấy bông vừa nở, cắm đầu bướm châm
2. Bướm châm mà bướm lại lầm
Bông kia nở sớm ong châm mất rồi!

1. Bứt đi thì dạ không đành
Cách xa nhân ngãi như chỉ mành thắt gan.

1. Cá không ăn câu thật là cá dại
Bởi câu anh cầm câu ngãi, câu nhân.

1. Cam sành rã rượi bờ ao
Tưởng không anh hái, có rào thì thôi.
1. Cất tiếng than, hai hàng lụy nhỏ
Anh nói thương em rồi lại bỏ em đây.

1. Cây vông đồng gói chẳng đặng nem
Tại anh chậm bước nên em có chồng.

1. Chỉ điều ai khéo vấn vương
Mỗi người một xứ mà thương nhau đời.

1. Chiếc ghe kia nói có
Chiếc ghe nọ nói không
2. Phải chi miếu ở gần sông
Em thề một tiếng kẻo lòng anh nghi.
1. Chiều chiều én liệng, cò bay
Bâng khuâng nhớ bạn, bạn rày nhớ ai?

1. chiều chiều lo bảy, lo ba
Lo cau trổ muộn, lo già hết duyên
2. Còn duyên anh cưới con heo
Hết duyên anh cưới con mèo cụt đuôi.

1. Chiều chiều ra đứng bờ kinh
Gặp ai ở góa anh rinh về nhà.

1. Chiều chiều ra đứng bờ mương
Bên tình, bên hiếu, biết thương bên nào.
1. Chim bay về cội, cá lội về rừng
Muốn nên cơ nghiệp thì đừng bỏ em.

1. Chim buồn tình chim bay về núi
Cá buồn tình cá lủi xuống sông
2. Anh buồn tình anh dạo chốn non bồng
Dạo miền sơn cước, xuống chốn ruộng đồng mới gặp em.

1. Chim chuyền bụi ớt
Rớt xuống bụi cà
2. Hồi nào gắn bó với ta
Bây giờ bội nghĩa đi ra lấy chồng.
1. Chim quyên xuống đất tha mồi
Thấy em cực khổ anh đứng ngồi không yên.

1. Chờ anh, em gắng sức chờ
Chờ hồi mười bày, bây giờ ba mươi.

1. Chuông già đồng điếu chuông kêu
Anh già lời nói em xiêu tấm lòng.

1. Chưa chi họ đồn quẩn, đồn quanh
Đồn em là vợ, đồn anh là chồng.

1. Con cua không sợ, anh sợ con còng
Dao phay anh không sợ, chỉ sợ gái hai lòng hại anh.
1. Con cá đối nằm trên cối đá
Con chim đa đa đậu nhánh đa đa
2. Chồng gần không lấy, lấy chồng xa
Một mai cha yếu, mẹ già
Bát cơm ai xới, chén trà ai dâng?

1. Con chim chà chiện nó bay thấp, liệng cao
Nó kêu “lăng lăng líu líu”
2. Đôi ta lận đận, lịu địu sao nỡ dứt tình”?
Thà không anh ở một mình
Kết duyên rồi lại bạc tình sao nên!

1. Dao vàng cắt ruột máu rơi
Ruột đau chưa xót bằng lời em than.
1. Cởi cái thương trả phắt
Cắt cái nhớ cho rồi
2. Bao nhiêu lời nói những hồi
Bỏ vô nồi sấu, sôi rồi bỏ đi.

1. Đu đủ tía, dền dền cũng tía
Khoai lang giâm, ngọn mía cũng giâm
2. Củi tre chen lộn với trầm
Giữ sao cho khỏi kẻo lầm em ơi!

1. Đứt tay một chút còn đau
Huống chi nhân ngãi lìa nhau không đành.
1. Hai bên: bên liễu, bên đào
Mặc tình ý bạn thương bên nào thì thương.

1. Em đang vút nếp thổi xôi
Nghe anh có vợ, thúng trôi, nếp chìm.

1. Ghe lui còn để dấu dằm
Người yêu đâu vắng dấu nằm còn đây.

1. Gió hiu hiu chiều ruột thắt
Nhìn sao bên bắc, nước chảy bên đông
2. Ai xui chi những vợ vợ, chồng chồng
Không biết đây với đó dây tơ lòng có xe?
1. Khó than, khó thở, khó phân trần
Tóc không xe mà rối, ruột không dần mà đau.
2. Không ăn thì ốm, thì gầy
Ăn thì nước mắt chan đầy chén cơm.

1. Mía càng già càng tốt
Mía càng đốt càng ngon
2. Anh thương em đặng nghĩa vuông tròn
Mấy sông cũng lội, mấy hòn cũng leo.

1. Một sông dễ bắc mấy cầu
Thiếp là phận gái biết hầu mấy nơi?
1. Một tay hai trái khó bưng
Muốn bưng trái nọ thì đừng trái kia.

1. Ngó lên Châu Đốc, ngó xuống Vàm Nao (1)
Anh thương em ruột thắt gan bào
Biết em có thương lại chút nào hay không?

1. Ngó lên chữ ứ
ngó xuống chữ ư
2. Anh thương em thủng thẳng chữ ừ
Anh đừng thương vội phụ mẫu từ nghĩa em.

1. Nghiêng tai hỏi nhỏ phật đồng
Trai tơ lấy gái có chồng đặng không?

(1). Vàm Nao: con sông nối liền sông Tiền và sông Hậu ở khúc Châu Đốc – Long Xuyên.
1. Ở xa nghe tiếng em cười
Trong tay cầm nén vàng mười cũng trao.

1. Ra đi là sự đã liều
Mưa mai cũng chịu, nắng chiều cũng cam.

1. Sông dài cá lội biệt tăm
Phải duyên chồng vợ ngàn năm cũng chờ.
2. Sông sâu cá lội vào bờ
Phải duyên thì lấy, đợi chờ nhau chi.

1. Sống ở dương gian không bắt được tay chàng
Thác xuống âm phủ em giở nắp hàng cho anh vô.
1. Thân em như thể bèo trôi
Sóng dập, gió dồi biết tựa vào đâu?
2. Thân em như thể trái chanh
Lắt lẻo trên cành nhiều kẻ ước ao.

1. Thiếp như cam, quýt, bưởi, bòng
Đắng the ngoài vỏ, trong lòng ngọt thanh.

1. Thuyền ai trôi trước
Đợi bước tới cùng
2. Chiều về trời đất mông lung
Phải duyên thì xích lại cho đỡ não nùng tuyết sương.
1. Tay cầm cành bứa, lệ ứa hàng hàng
Thủa xuân xanh sao không gặp, để lúc hoa tàn mới gặp nhau?

1. Tiếc công lao đào ao thả cá
Năm bảy tháng trời người lạ đến câu
2. Tiếc công trang điểm bấy lâu
Trai tơ không gặp, gặp râu ba chòm

1. Tiếc công vạch lỗ, chui rào
Vô không gặp bậu, gai cào trầy lưng.
2. Tôi với mình thề trước miếu ông
Sống nằm một chiếu, chết chung một mồ.
1. Trải chiếu ra chàng ngồi một góc, thiếp ngồi một góc
Chàng than, thiếp khóc, tình hỡi là tình
Nằm đêm nghĩ lại anh bạc tình hay em?

1. Trông em đã mấy thu tròn
Khăn lau nước mắt muốn mòn con ngươi.

1. Tôi xa anh một ngày không ốm cũng đau
Mặt nhìn trăng trăng lặn, tay đếm sao sao tàn.
1. Trai ba mươi hãy đang xoan
Gái ba mươi tuổi đã toan về già.

1. Trâu kia gặm cỏ bờ ao
Anh kia không vợ đời nào có con?
2. Người ta con trước, con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng
3. Cau không buồng ra tuồng cau đực
Trai không vợ cực lắm anh ơi!
4. Người ta đi đón, về đôi
Thân anh đi lẻ, về loi một mình.

IV. HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

1. Làm thân con gái phải lo
Mùa đông rét mướt ai cho mượn chồng.

1. Bấy lâu sao chẳng nói năng
Bây giờ năng nói thì trăng xế tà.

1. Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng.
2. Gái có chồng như gông đeo cổ,
Gái không chồng như phản gỗ long đanh
3. Phản long đanh anh còn chữa được,
Gái không chồng chạy ngược chạy xuôi.
Không chồng khốn lắm chị em ơi!
1. Con dế kêu sầu, sao anh không bắt ngắt râu
Để nó kêu rỉ rả suốt đêm thâu, em buồn.

1. Con chim trên cành cắn cây ngậm lá
Con cá dưới biển ẩn đá ngậm sao
2. Gặp mặt anh đây không nói không chào
Hay là em có nơi nào bỏ anh?

1. Cục đá lăn nghiêng lăn ngửa
Khen ai khéo sửa cục đá lăn tròn.
Giận thời em nói vậy chứ dạ còn thương anh.
1. Không chồng trông dọc, trông ngang,
Có chồng cứ thẳng một đàng mà đi

1. Phải duyên thì bám như keo
Trái duyên chổng chểnh như kèo đục vênh.

1. Hỏi vợ thì cưới liền tay
Chớ để lâu ngày lắm kẻ gièm pha.

1. Một cành tre, năm bảy cành tre,
Lấy ai thì lấy chớ nghe họ hàng.

1. Còn duyên kén cá, chọn canh
Hết duyên ếch đực, cua kềnh cũng vơ.
1. Còn duyên buôn cậy bán hồng
Hết duyên buôn mít cho chồng gặm xơ.

1. Cô kia nước lọ, cơm niêu
Chồng con chẳng có, nằm liều nuôi thân.
– Chồng con là cái nợ lần,
Thà rằng ở vậy nuôi thân béo mầm!

1. Già thời bế cháu đỡ con
Già đâu lại ước cau non trái mùa.
– Già nay ước những của chua
Cau non trái mùa già vẫn muốn ăn!
1.Đi đâu mà chẳng lấy chồng
Người ta lấy hết, chổng mông mà gào
2. Gào rằng: “đất hỡi, trời ơi!
Sao không thí bỏ cho tôi tấm chồng”. (1)

1. Còn duyên kẻ đón người đưa
Hết duyên đi sớm, về trưa mặc lòng.

1. Tám mươi ngả gậy ra ngồi
Hỏi rằng xuân có tái hồi nữa chăng?
– Xuân rằng xuân chẳng tái hồi
Bốn dài, hai ngắn mà lôi xuân vào. (2)

(1). Có bản chép:
Gào rằng đất thấp, trời cao
Sao không thí bỏ cho tao chút chồng?

(2). Bốn dài, hai ngắn: ám chỉ cái quan tài.
1. Chàng về thiếp cũng xin về
Chàng về Hồ Bắc, thiếp về Hồ Tây
2. Chàng bao nhiêu tuổi năm nay?
Chàng rằng mười tám, thiếp rày bốn ba.
3. Mồ cha đứa chê thiếp già
Thiếp còn gánh nổi một và trăm kim.
4. Trăm kim đổi lấy lạng vàng
Mua gương tư mã thiếp chàng soi chung.

1. Chàng về sắm sửa loan phòng,
Thiếp xin điểm phấn, tô hồng thiếp theo.
1. Bà già ra chợ Cầu Đông
Xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng?
2. Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
“Lợi thì có lợi nhưng răng không còn”

1. Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục lại vần than rơm.
2. Tiếc thay hạt gạo tám xoan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà.

1. Đường đi những lách cùng lau
Cha mẹ tham giầu ép uổng duyên con.
1. Bắc thang lên đến tận trời
Bắt ông Nguyệt Lão đánh mười cẳng tay
2. Đánh rồi lại trói vào cây
Hỏi ông Nguyệt Lão nào dây tơ hồng?
3. Nào dây xe bắc, xe đông
Nào dây xe vợ, xe chồng người ta.
4. Ông vụng xe tôi lấy phải vợ già
Tôi thì đốt cửa, đốt nhà ông đi.

1. Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm tơ tưởng ngỡ ông láng giềng.
1. Trách duyên lại giận trăng già
Xe tơ lầm lỗi hóa ra chỉ mành
2. Biết ai than thở sự tình
Chẳng qua mình lại biết mình mà thôi.

1. Mẹ em cấm đoán em chi
Để em sắm sửa em đi lấy chồng
2. Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng răng đen.

1. Thầy mẹ tham bạc, tham tiền
Tham con lợn béo, cấm duyên em già.
2. Để đến nay anh cưới em một nửa con gà
Dăm ba sợi bún, một và hạt xôi.
1. Mẹ em thấy của thời tham
Hang hùm cứ tưởng hang vàng ép con.
2. Nói ra thẹn với nước non
Ngậm vào cay đắng lòng con đêm ngày.

1. Chồng lên tám, vợ mười ba
Ngồi rỗi nu nống, nu na đỡ buồn
2. Mười tám vợ đã lớn khôn
Nu na nu nống chồng còn mười ba.
3. Mẹ ơi con phải gỡ ra
Chồng con nu nống nu na suốt ngày.
Đêm nằm khắc khoải canh chầy!…
1. Mẹ em tham thúng xôi rền
Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng
2. Em đã bảo mẹ rằng đừng
Mẹ hấm, mẹ hứ, mẹ bưng ngay vào
3. Bây giờ kẻ thấp, người cao
Như đôi đũa lệch so sao cho bằng!

1. Tiếc thay hòn ngọc mà rơi xuống bùn!
Tiếc tờ giấy bạch để thằng bé cỏn con nó vẽ vời!

1. Răng đen nhưng nhức hạt na
Kén đi kén lại nó ra hạt bầu.
1. Mẹ em tham gạo, tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
2. Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chưa sạch, ra đàng đánh nhau…
3. Nghĩ mình càng tủi, càng đau
Trách cha, trách mẹ tham giầu, tham sang.

1. Vô duyên, vô phúc!
Múc phải anh chồng già
Ra đường người hỏi rằng cha hay chồng?
2. Nói ra đau đớn trong lòng
Ấy cái nợ truyền kiếp, có phải chồng em đâu!
1. Tiếc thay nước đục mà đựng chậu thau
Cái mâm chữ triện đựng rau thài lài.
2. Tiếc người da trắng, tóc dài,
Đương xuân cha mẹ ép nài lấy lão sáu mươi.

1. Chẳng tham nhà ngói bức bàn
Trái duyên coi bẵng một gian chuồng gà
2. Ba gian nhà rạ lòa xòa
Phải duyên coi tựa chín tòa nhà lim.

1. Rung rinh nước chảy qua đèo
Bà già tấp tểnh mua heo cưới chồng.
1. Cái cò lặn lội bờ ao
Hỡi cô yếm đào lấy chú tôi chăng?
2. Chú tôi hay tửu hay tăm
Hay nước chè đặc, hay nằm ngủ trưa.
3. Ngày thì ước những ngày mưa,
Đêm thì ước những đên thừa trống canh.

1. Bắt ông Tơ mà cho ba đấm
Bắt bà Nguyệt đánh bốn mươi hèo
2. Duyên người ta xe buổi sớm
Duyên em buổi chiều mới xe.
1. Bà già đã tám mươi hai
Ngồi trong quan tài hát ví thợ sơn.

1. Công anh làm rể Chương Đài
Một năm ăn hết mười hai vại cà
2. Giếng đâu thì dắt anh ra
Kẻo anh chết khát vì cà nhà em.

1. Công anh làm rể ba năm
Chiếu chả được nằm, đất lại cắm chông
2. Con bà bà lại gả chồng
Để tôi vất vả, tốn công nhiều bề.
1. Rau răm cắt ngọn còn tươi
Những nơi phải lứa thì trời không xe.
2. Những nơi bạc ác, gớm ghê
Tôi không muốn lấy trời xe tôi vào
3. Tiếc thay cái sợi chỉ đào
Áo rách chẳng vá, vá vào áo tơi
4. Bực mình tôi lắm trời ơi!
Muốn chôn bà Nguyệt, muốn vùi ông Tơ!
5. Giận người làm mối vẩn vơ
Duyên tôi đã lỗi, ông Tơ lại lầm.
1. Em như con hạc đầu đình
Muốn bay chẳng nhấc nổi mình mà bay.

2. Vắn (ngắn) tay với chẳng tới kèo
Cha mẹ anh nghèo cưới chẳng được em.

1. Cái bống cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
2. Cho tôi mượn cái gầu sòng
Để tôi tát nước cho chồng tôi lên.

1. Bữa cơm múc nước rửa râu
Hầu cơm, hầu rượu, hầu trầu, hầu tăm,
2. Đêm đêm dắt cụ đi nằm
Than thân phận gái ôm lưng lão già
3. Ông ơi, ông buông tôi ra
Kẻo ai trông thấy, người ta chê cười.
1. Gà tơ xào với mướp già
Vợ hai mươi tuổi, chồng đà sáu mươi
2. Ra đường chị giễu, em cười
Rằng hai ông cháu kết đôi vợ chồng
3. Đêm nằm tưởng cái gối bông
Giật mình gối phải râu chồng nằm bên
4. Sụt sùi tủi phận hờn duyên
Oán cha trách mẹ tham tiền bán con.

1. Nơi thương cha mẹ biểu không
Nơi chẳng bằng lòng cha mẹ biểu ưng.
1. Trách lòng cha mẹ vụng toan
Bông búp không bán để tàn ai mua!

1. Chồng ta áo rách ta thương
Chồng người áo gấm xông hương mặc người.

1. Xấu xa cũng thể chồng ta
Dù cho tốt đẹp cũng ra chồng người.

1. Vợ chồng như đôi cu cu
Chồng đi trước, vợ gù gù theo sau

1. Chồng giận thì vợ làm lành
Miệng cười hớn hở: “rằng anh giận gì?”
2. Chồng giận thì vợ bắt lời
Cơm sôi nhỏ lửa một đời không khê.
1. Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan, vợ húp gật đầu khen ngon.

1. Đói no một vợ một chồng
Một niêu cơm tấm, dầu lòng ăn chơi.

1. Làm trai lấy được vợ hiền
Bằng cầm đồng tiền mua được miếng ngon.
2. Làm gái lấy được chồng khôn
Cầm bằng cá vượt vũ môn hóa rồng
1. Qua đồng ghé nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa thương chồng bấy nhiêu.

1. Chim Quyên ăn trái nhãn lồng
Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

1. Đôi ta lấm tấm hoa nhài
Chồng đây, vợ đấy kém ai trên đời
2. Muốn cho gần chợ ta chơi
Gần sông tắm mát, gần nơi đi về.
1. Cơm trắng ăn với chả chim
Chồng đẹp, vợ đẹp, những nhìn mà no
2. Cơm hẩm ăn với cà kho
Chồng xấu, vợ xấu những lo mà gầy.

1. Ai kêu, ai hú bên sông
Tôi đang sắm sửa cho chồng xuống ghe.
2. chồng xuống ghe, quạt che, tay ngoắt
Cất mái chèo, ruột thắt từng cơn
3. Đi đâu cho thiếp đi cùng
Đói no thiếp chịu, lạnh lùng thiếp cam.
1. Tay nâng khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.

1. Đôi ta là nghĩa tao khang,
Xuống khe bắt ốc, lên ngàn hái rau.

1. Ai làm cho cải tôi ngồng
Cho dưa tôi khú, cho chồng tôi chê
2. Chồng chê thì mặc chồng chê
Dưa khú nấu với cá trê ngọt lừ.

1. Vợ chồng là nghĩa già đời
Ai ơi chớ nghĩ những lời thiệt hơn.
1. Mẹ cha bú mớm, nâng niu
Tội trời đành chịu không yêu bằng chồng.

1. Chồng yêu cái tóc nên dài
Cái duyên nên đẹp, cái tài nên khôn.

1. Ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay ghen chồng.
2. Vôi nào là vôi chẳng nồng
Gái nào là gái có chồng chẳng ghen.

1. Dốc bồ thương kẻ ăn đong
Vắng chồng thương kẻ nằm không một mình.
1. Đốn cây ai nỡ đứt chồi
Đạo chồng, nghĩa vợ giận rồi lại thương.

1. Dẫu rằng da trắng, tóc mây
Đẹp thì đẹp vậy, dạ này không ưa
2. Vợ ta dù có quê mùa
Thì ta vẫn cứ sớm trưa vui cùng.

1. Một thuyền, một bến, một dây
Ngọt bùi chung hưởng, đắng cay chịu cùng.

1. Không thiêng cũng thể bụt nhà
Dầu khôn dầu dại cũng là chồng em.

1. Có chồng chẳng được đi đâu
Có con chẳng được đứng lâu nửa giờ.

1. Đôi bên bác mẹ cùng già
Lấy anh hay chữ để mà cậy trông
2. Mùa hè cho chí mùa đông
Mùa nào thức ấy cho chồng ra đi
3. Hết gạo thiếp lại gánh đi
Hỏi thăm chàng học ở thì nơi nao?
4. Hỏi thăm đến ngõ thì vào
Tay đặt gánh xuống, miệng chào: “thưa anh!”
1. Quả cau nho nhỏ
Cái vỏ vân vân
2. Nay anh học gần
Mai anh học xa
3. Tiền gạo thì của mẹ cha
Cái nghiên, cái bút thiệt là của em.

1. Vì chàng thiếp phải mò cua
Những như thân thiếp thì mua mấy đồng
2. Vì chàng thiếp phải long đong
Những như thân thiếp cũng xong một bề.
1. Tưởng rằng cây cả bóng cao
Em ghé mình vào trú nắng, trú mưa
2. Ai ngờ cây cả lá thưa
Ngày nắng rát mặt, ngày mưa ướt đầu.

1. Đố anh chừa được rượu tăm
Chừa ăn thuốc chín, chừa nằm chung hơi
2. Rượu tăm anh đã chừa rồi
Thuốc chín chừa được, chung hơi không chừa.
1. Thứ nhất vợ dại trong nhà
Thứ nhì trâu chậm, thứ ba rựa cùn (*)
2. -Vợ dại thì đẻ con khôn
Trâu chậm lắm thịt, rựa cùn chịu băm.

1. Gái một con trông mòn con mắt
Gái hai con, con mắt liếc ngang
2. Ba con cổ ngẳng, răng vàng
Bốn con quần áo đi ngang khét mù.
3. Năm con tóc rối tổ cu
Sáu con yếm tụt, váy dù vặn ngang.

(*) còn có câu: Thứ nhất vợ dại trong nhà
Thứ nhì nhà dột, thứ ba nợ đời
1. Chưa chồng nón thúng quai thao
Chồng rồi nón rách, quai nào thì quai.
2. Chưa chồng yếm thắm đeo hoa
Chồng rồi hai vú bỏ ra tày giành.

1. Chồng gì anh, vợ gì tôi?
Chẳng qua là cái nợ đời chi đây
2. Mỗi người một nợ cầm tay
Đời xưa nợ vợ, đời nay nợ chồng.
1. Làm trai học sảy, học sàng
Đến khi vợ đẻ thì làm mà ăn.

1. Làm trai rửa bát, quét nhà
Vợ gọi thì dạ, bẩm bà tôi đây.

1. Làm trai cho đáng nên chai
Ăn cơm với vợ lại nài cậy niêu
2. Con vợ nó cũng biết điều
Thắt lưng con cón cậy niêu với chồng.
1. Ngày nào anh bủng anh beo
Tay cất chén thuốc, tay đèo múi chanh.
2. Bây giờ anh khỏi, anh lành
Anh mê nhan sắc, anh tình phụ tôi!

1. Có bát sứ tình phụ bát đàn
Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày.

1. Khi chưa cầu, lụy trăm đàng
Được rồi thì lại phũ phàng làm ngơ.
1. Xin đừng thấy quế phụ hương
Quế già quế rụi, hương trường thơm xa.

1. Chàng ơi phụ thiếp làm chi
Thiếp như cơm nguội đỡ khi đói lòng.

1. Thế gian một vợ, một chồng
Chẳng như vua bếp hai ông một bà.

1. Anh kia có vợ con rồi
Mà sao còn muốn hoa hồi cầm tay.
2. Hoa hồi vừa đắng vừa gây
Vừa mặn như muối, vừa cay như gừng.
1. Đã thành gia thất thì thôi
Đèo bòng cho lắm tội trời ai mang?

1. Lấy chồng làm lẽ khổ thay!
Đi cấy, đi cầy, chị chẳng kể công
2. Đến tối chị giữ lấy chồng
Chị cho manh chiếu nằm không nhà ngoài.
3. Sáng sáng chị gọi: bớ hai!
Trở dậy nấu cám, thái khoai, băm bèo
4. Bởi chưng bác mẹ tôi nghèo
Cho nên tôi phải đâm bèo, thái khoai.
1. Đói lòng ăn nắm lá sung
Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng
2. Một thuyền một lái chẳng xong
Một chĩnh đôi gáo còn nong tay vào.

1. Thân em làm lẽ chẳng hề
Có như chính thất mà lê giữa giường.
2. Tối tối chị giữ mất chồng
Chị cho manh chiếu nằm suông chuồng bò
3. Mong chồng, chồng chẳng xuống cho
Đến khi chồng xuống gà đã: “o… o” gáy dồn
4. Chém cha con gà kia sao mày vội gáy dồn?
Mày làm cho tao mất vía, kinh hồn về nỗi chồng con!
1. Lênh đênh chiếc bách giữa dòng
Thương thân góa bụa, phòng không lỡ thì.
2. Gió đưa cây trúc ngã quỳ
Ba năm trực tiết còn gì là xuân!

1. Chồng khôn vợ được đi hài
Vợ khôn chồng được nhiều bài cậy trông.

1. Khuyên chàng đọc sách, ngâm thơ
Dầu hao thiếp rót, đèn mờ thiếp khêu.

1. Vì tằm em phải chạy dâu
Vì chồng em phải qua cầu đắng cay.
1. Trách chàng ăn ở chấp chênh
Em như thuyền thúng lênh đênh giữa dòng
2. May ra trời lặng, nước trong
Chẳng may bão táp cực lòng thiếp thay
3. Công thiếp vò võ đêm ngày
Mà chàng ăn ở thế này chàng ôi!
4. Thiếp như hoa đã nở rồi
Xin chàng che lấy mặt trời cho tươi.

1. Vì chồng nên phải gắng công
Nào ai da sắt, xương đồng chi đây.
1. Một ngày ba bữa cơm đèn
Còn gì má phấn, răng đen hỡi chàng?

1. Một ngày ba bận trèo đèo
Vì ai vú xếch, lưng eo hỡi chàng?

1. Đem mình vào chốn sập vàng
Cả ăn, cả mặc lại càng cả lo
2. Đem mình vào chốn than tro
Đủ ăn, đủ mặc, đủ lo, đủ làm.
1. Chồng người thổi sáo, thổi tiêu
Chồng em ngồi bếp húp riêu bỏng mồm.

1. Lỗ mũi mười tám gánh lông
Chồng yêu chồng bảo: “tơ hồng trời cho”
2. Đêm nằm thì gáy: “o o”
Chồng yêu chồng bảo: “ngáy cho vui nhà”
3. Đi chợ thì hay ăn quà
Chồng yêu chồng bảo: “về nhà đỡ cơm”
4. Trên đầu những rác cùng rơm
Chồng yêu chồng bảo: “hoa thơm rắc đầu”.
1. Sáng ngày ra đứng cửa Đông
Xem một quẻ bói lộn chồng được chăng?
2. Thầy bói gieo quẻ nói rằng:
Lộn thì lộn được nhưng năng phải đòn
3.- Mồ cha đứa có sợ đòn
Miễn là lấy được chồng giòn thì thôi!

1. Cái cò trắng bạch như vôi
Có ai lấy lẽ chú tôi thì về.
2. Chú tôi chẳng đánh, chẳng chê
Thím tôi móc ruột, lôi mề, ăn gan.
1. Mật ngọt rớt xuống thau đồng
Những lời anh nói cho lòng em say
2. Một trâu anh sắm đôi cày
Một chàng đôi thiếp có ngày oan gia!
3. Chàng ơi! chàng cho em ra
Nhẽ đâu một ổ đôi gà ấp chung!

1. Anh ơi cờ bạc nên chừa
Rượu cho anh uống, rượu mua anh đừng.

1. Áo vá vai vợ ai không biết
Áo vá quàng chí quyết vợ anh.
1. Bồng em đi dạo vườn dưa
Dưa đà có trái chị chưa có chồng.

1. Bướm vàng đậu đọt mù u
Lấy chồng càng sớm tiếng ru càng buồn.

1. Cá về chợ Dĩnh hết mong
Em về Đồng Tháp bỏ chồng cho ai?

1. Ghe bầu trở lái về đông
Làm thân con gái theo chồng nuôi con.

1. Giường lèo mà trải chiếu mây
Làm trai hai vợ như dây buộc mình.
1. Một cây tùng năm, bảy con thỏ leo chung
Biết làm sao đặng ở cùng với nhau.

1. Mưa sa lác đác gió tạt vô thành
Đôi ta chồng vợ, ai dỗ dành đừng xiêu.

1. Ở đời ba, bảy lần chồng
Miễn sao giữ được một lòng là hơn.

1. Rau răm đất cứng, khó bứng, dễ trồng
Dầu hay, dầu dở cũng chồng của em.

1. Rương xe, chìa khóa em cầm
Giang sơn em gánh, nợ nần em lo.
1. Thiếp xa chàng quên ăn, quên ngủ
Chàng xa thiếp thức đủ năm canh.

1. Thương chồng phải lụy cùng chồng
Đắng cay phải chịu, mặn nồng phải cam.

1. Trăm năm giữ vẹn chữ tòng
Sống sao thác vậy, một chồng mà thôi.

1. Trời dông chớp lạnh, mưa nguồn
Lấy chồng xứ lạ dạ buồn biết bao.

1. Khó nghèo củi núi, rau non
Nuôi cha, nuôi mẹ cho tròn nghĩa con.
1. Đói lòng ăn bát cháo môn
Để cơm nuôi mẹ cho tròn hiếu trung.

1. Gió mùa thu mẹ ru con nghủ
Năm canh chầy thức đủ năm canh.

1. Lên chùa thấy phật muốn tu
Về nhà thấy mẹ công phu chưa đền.

1. Lên non mới biết non cao
Nuôi con mới biết công lao mẹ thầy.

1. Ví dầu cầu ván đóng đanh
Cầu tre lắc lẻo gập ghềnh khó đi
2. Ví dầu mẹ chẳng có chi
Chi con với mẹ chẳng khi nào rời.
1. Chẳng lo thân bậu thân qua
Lo chút mẹ già đầu bạc, tuổi cao.

1. Xiết bao bú mớm bù trì
Đến khi con lớn con đi lấy chồng.

1. Có con đỡ gánh đỡ gồng
Con đi lấy chồng vai gánh, tay mang.

1. Chiều chiều xách giỏ hái rau
Ngó lên mộ mẹ ruột đau như dần.

1. Ai về tôi gửi buồng cau
Buồng trước kính mẹ, buồng sau kính thầy
2. Ai về tôi gửi đôi giầy
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
1. Ân cha nặng lắm ai ơi!
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.

1.Trách ai đặng cá quên nơm
Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.

1. Tưởng rằng trong đạo mẹ cha
Con trai, con gái cũng là một thương.

1. Trai mà chi, gái mà chi
Sinh ra có ngãi có nghì là hơn.

1. Cây xanh thì lá cũng xanh
Cha mẹ hiền lành để đức cho con.
1. Cá chẳng ăn muối cá ươn
Con cưỡng cha mẹ, trăm đường con hư.

1. Có con phải khổ vì con
Có chồng phải gánh giang sơn nhà chồng.

1. Có cha có mẹ thì hơn
Không cha không mẹ như đờn không dây. (1)

1. Còn cha gót đỏ như son
Đến khi cha chết, gót con đen sì.

1. Cũng thì con mẹ, con cha
Con thì chín rưỡi, con ba mươi đồng.

(1). Có bản chép: không cha, không mẹ như đờn đứt dây
1. Mẹ già ở tấm lều tranh
Sớm thăm, tối viếng mới đành dạ con.

1. Mẹ già như chuối ba hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.

1. Vẳng nghe chim vịt kêu chiều
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.

1. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.

1. Đói lòng ăn hột chà là
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Tu đâu cho bằng tu nhà
Thờ cha, kính mẹ ấy là chân tu.

Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Nhìn về quê mẹ ruột đau chín chiều.

Dạy con, dạy thuở còn thơ
Dạy vợ, dạy thuở ban sơ mới về.

Chim trời ai dễ đếm lông
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.

Có chồng mà chẳng có con
Khác chi hoa nở trên non một mình.
Có vàng, vàng chẳng hay phô
Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe.

Anh đi làm mướn nuôi ai
Cho anh rách áo, cho vai anh mòn?
Anh đi làm mướn nuôi con
Áo rách mặc áo, vai mòn mặc vai.

Nuôi con cho được vuông tròn
Mẹ thầy dầu dãi, xương mòn, gối long
Con ơi, cho trọn hiếu trung
Thảo ngay một dạ kẻo luống công mẹ thầy.
Công cha như núi Thái Sơn (1)
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ, kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.

Ngày nào em bé cỏn con
Bây giờ em đã lớn khôn thế này
Cơm cha, nghĩa mẹ, chữ thầy
Nghĩ sao cho bõ những ngày ước ao.

Mẹ nuôi con biển hồ lai láng
Con nuôi mẹ, kể tháng, kể ngày.

(1). Thái Sơn: tên một ngọn núi trong Ngũ Ngọc Sơn thuộc tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc)
Bốn con ngồi bốn chân giường
Mẹ ơi, mẹ hỡi, mẹ thương con nào?
Mẹ thương con bé mẹ thay
Thương thì thương vậy chẳng tày trưởng nam
Trưởng nam nào có gì đâu?
Một trăm cái giỗ đổ đầu trưởng nam.

Mẹ già hết gạo treo niêu
Mà anh khăn đỏ, khăn điều vắt vai.

Sống thì con chẳng cho ăn
Chết thì xôi thịt làm văn tế ruồi.
Con mẹ có thương mẹ đâu
Để cho chàng rể, nàng dâu thương cùng.

Chồng dữ thì em mới rầu
Mẹ chồng mà dữ, giết trâu ăn mừng.

Nghe đồn cha mẹ anh hiền
Cắn cơm không vỡ, cắn tiền vỡ đôi.

Mẹ anh năm lọc, bảy lừa
Mua cam phải quýt, mua dưa phải bầu
Mua kim mua phải lưỡi câu
Mua mật phải dầu cực lắm anh ơi!
Thật thà cũng thể lái trâu
Yêu nhau cũng thể nàng dâu mẹ chồng.

Đói lòng ăn khế, ăn sung
Trông thấy mẹ chồng thì nuốt chẳng trôi.

Thương chồng phải khóc mụ gia (1)
Ngẫm tôi với mụ có bà con chi.

Cô kia đội áo đi đâu?
– Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng ác nghiệt gớm ghê
Tôi ở chẳng được tôi về nhà tôi.

(1). Mụ gia: mẹ chồng
Từ khi em về làm dâu
Thì anh dặn bảo trước sau mọi lời:
Mẹ già dữ lắm em ơi!
Nhịn ăn, bớt ngủ mà nuôi mẹ già
Nhịn cho nên cửa, nên nhà
Nên kèo, nên cột, nên xà tầm vông
Nhịn cho nên vợ nên chồng
Thì em coi sóc lấy trong cửa nhà.

Dì ruột thương cháu như con
Rủi mà không mẹ cháu còn cậy trông.
Vợ chồng đầu gối má kề
Lòng nào mà bỏ mà về cho đang
Hồ về chân lại đá ngang
Về sao cho đứt cho đang mà về.

Anh em như chân với tay
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.

Tưởng rằng chị ngã em nâng
Ai ngờ chị ngã em bưng miệng cười.

Anh em hiền thật là hiền
Bởi một đồng tiền làm mất lòng nhau.
Bưng được miệng chĩnh, miệng vò
Nào ai bưng được miệng o miệng gì.

Giầu sang nhiều kẻ đến nhà
Khó khăn nên nỗi ruột rà xa nhau.

V. ĐẤU TRANH CHỐNG PHONG KIẾN VÀ TỆ NẠN XÃ HỘI

Áo rách chi lắm áo ơi!
Áo rách trăm mảnh không có nơi cho rận nằm.

Ăn mày là ai, ăn mày là ta
Đói cơm, rách áo thành ra ăn mày.

Cây khô xuống nước cũng khô
Phận nghèo đi đến nơi mô cũng nghèo.
Cực lòng nên phải biến dời
Biến dời lại gặp phải nơi cực lòng.

Gánh cực mà đổ nên non
Còng lưng mà chạy, cực còn theo sau.

Gạo chợ một tiền mười thưng
Mẹ con nhịn đói vì chưng không tiền.

Trời sao trời ở chẳng cân
Kẻ ăn không hết, người lần không ra.
Người thì mớ bảy, mớ ba
Người thì áo rách như là áo tơi.
Cả đời khốn khổ, chua cay
Ước ao có được một ngày làm vua.

Thân anh ba mươi mốt tuổi đầu
Vợ anh chưa có
Đêm nằm vò võ
Một xó giường không
Có cực hay không?
Có thảm hay không?
Người năm bảy vợ, người không vợ nào!
Trời xanh, muối trắng, cát vàng
Thứ gì cũng đẹp riêng nàng lầm than.

Chẳng làm người bảo rằng ươn
Làm thì xương sống, xương sườn phơi ra.

Giầu từ trong trứng giầu ra
Khó từ ngã bảy, ngã ba khó về.

Đã giầu thì lại giầu thêm
Đã khó thì khó cả đêm lẫn ngày.

Nhà mày lắm đất, lắm ao
Lắm trâu, lắm ruộng còn tao ăn gì?
Bốn bề công nợ eo sèo
Chỉ vì một nỗi tôi nghèo mà thôi
Tôi làm tôi chẳng có chơi
Nghèo đâu nghèo mãi trời ơi hỡi trời!

Khen ai khéo đặt nên nghèo
Kém ăn, kém mặc, kém điều không ngoan
Nhà giầu nói một hay mười
Nhà nghèo nói chẳng được lời nào khôn.
Mùa đông môi xám như chì
Mùa hè da sạm khác gì hòn than
Áo manh che trận gió hàn
Đầu trần, nắng lửa, mưa chan dãi dầu
Ối mẹ đâu, ối cha đâu
Đi đâu mà bắt con hầu người ta
Tưởng tình nghĩa mẹ, công cha
Chưa đền chút đỉnh xót xa dạ này.

Canh nông sớm tối ngoài đồng
Suốt ngày cặm cụi chổng mông lên trời
Bữa ăn như bữa vét nồi
Đói cào đói rã, mồ hôi ướt đầm
Sống gì sống tối, sống tăm
Khổ ngày, khổ tháng, khổ năm, khổ đời
Bắc thang lên hỏi ông trời
Cớ sao nỡ để kiếp người đắng cay?
Nhà nghèo như giỏ thủng trôn
Nhà giầu như bạc bỏ hòm xưa nay
Nghèo đâu nghèo mãi thế này
Mất chúng, mất bạn vì nay tội nghèo.

Con quan thì lại làm quan
Con nhà kẻ khó đốt than cả ngày.

Con vua thì lại làm vua
Con nhà kẻ khó bắt cua tối ngày.

Ếch kêu dưới vũng tre ngâm
Ếch kêu mặc ếch, tre dầm mặc tre.
Sinh con gặp phải buổi này
Bao giờ mở mặt, mở mày con ơi!

Cái phận nhà khó khổ thay
Ba năm giặt váy, gặp ngày trời mưa.

Người ta đi cấy lấy công
Tôi nay đi cấy tay không trở về.

Từ nay tôi cạch đến già
Tôi chẳng dám cấy ruộng bà nữa đâu
Ruộng bà vừa xấu vừa sâu
Vừa bé hạt thóc vừa lâu đồng tiền
Tôi về cấy ruộng quan điền
Bát gạo đã lớn, quan tiền trao tay.
Trời mưa cho ướt lá khoai
Công anh làm rể đã hai năm ròng
Nhà em lắm ruộng ngoài đồng
Bắt anh tát nước cực lòng anh thay
Tháng chín mưa bụi gió bay
Cất được gầu nước hai tay rụng rời.

Một ngày mấy lượt trèo non
Lấy gì làm đẹp, làm giòn hở anh?

Ngày nào trời nắng chang chang
Mẹ con đốn củi, đốt than no lòng
Trời làm một trận mênh mông
Mẹ con nhịn đói nằm không ba ngày.

Cấy lúa, lúa trổ ra năn
Kẻ trộm gặt mất con ăn bằng gì?
Con ăn lộc sắn, lộc si
Con ăn bằng gì cho đến tháng năm?
Thân ai khổ như thân rùa
Xuống sông đội đá, lên chùa đội bia
Thân ai khổ như thân anh kia
Ngày đi cuốc bãi, tối về nằm suông.

Bồng bồng mẹ bế con sang
Đò to, nước lớn, mẹ mang con về
Mang về đến gốc bồ đề
Xoay sở hết nghề, mẹ bán con đi.
Cầm trâu, cầm áo, cầm khăn
Cầm dây lưng lụa, xin đừng cầm em!

Đừng có chết mất thì thôi
Sống thì có lúc no xôi, chán chè.

Thấy anh em cũng muốn theo
Em sợ anh nghèo, anh bán em đi
Lấy anh em biết ăn gì
Lộc sắn thì chát, lộc si thì già
Lấy anh không cửa, không nhà
Không cha, không mẹ biết là cậy ai.
Tháng giêng
Tháng hai
Tháng ba
Tháng bốn
Tháng khốn, tháng nạn
Đi vay
Đi tạm
Được một quan tiền
Ra chợ Kẻ Diên
Mua con gà mái
Về nuôi hắn đẻ ra mười trứng
Một cái trứng ung
Hai cái trứng ung
Ba cái trứng ung
Bốn cái trứng ung
Năm cái trứng ung
Sáu cái trứng ung
Bảy cái trứng ung
Còn ba cái trứng nở ra ba con:
Con – diều tha
Con – quạ bắt
Con – cắt lôi.
Chớ lo phận khó ai ơi
Còn da – lông mọc, còn chồi – nẩy cây.

Cái cò, cái vạc, cái nông
Sao mày giẫm lúa nhà ông, hỡi cò?
Không, không tôi đứng trên bờ
Mẹ con cái diệc đổ ngờ cho tôi!
Không tin ông đến mà coi
Mẹ con cái diệc còn ngồi ở kia.
Con cò mày đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao
Ông ơi! ông vớt tôi nao
Tôi có lòng nào ông hãy xáo măng
Có xáo thì xáo nước trong
Đừng xáo nước đục đau lòng cò con.

Cóc chết bỏ nhái mồ côi
Chẫu ngồi chẫu khóc: Chàng ơi là chàng!
Ễnh ương đánh lệnh đã vang
Tiền đâu mà trả nợ làng ngốc ơi!
Con cò chết tối hôm qua
Có một hạt gạo với ba đồng tiền
Một đồng mua trống, mua kèn
Một đồng mua mỡ đốt đèn thờ vong
Một đồng mua mớ rau rong
Đem về thái nhỏ thờ vong con cò.

Cái cò mày mổ cái tôm
Cái tôm quắp lại, lại ôm cái cò
Cái cò mày mổ cái trai
Cái trai quắp lại, lại nhai cái cò.
Con cò mắc giò mà chết (1)
Con quạ ở nhà mua nếp làm chay
Con cu đánh trống bằng tay
Chào mào đội mũ làm thầy đọc văn
Chiền chiện vừa khóc, vừa lăn
Một bầy se sẻ bịt khăn cho cò.

Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cộc leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cộc leo vào leo ra.

(1). Giò: tên một loại bẫy dùng để bẫy chim, cò.
Bao giờ cho đến tháng ba
Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng
Hùm nằm cho lợn liếm lông
Một chục quả hồng nuốt lão tám mươi
Nắm xôi nuốt trẻ lên mười
Con gà, be rượu nuốt người lao đao
Lươn nằm cho trúm bò vào
Một đàn cào cào đi bắt cá rô
Thóc giống đuổi chuột trong bồ
Đòng đong, cân cấn đuổi cò ngoài ao.
Con gà cục tác lá chanh
Con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi
Con chó khóc đứng, khóc ngồi
Mẹ ơi đi chợ mua tôi đồng riềng!

Tò vò mà nuôi con nhện
Đến khi nó lớn, nó quện nhau đi
Tò vò ngồi khóc tỉ ti
Nhện ơi, nhện hỡi! nhện đi đằng nào?
Con kiến mà leo cành đa
Leo phải cành cụt leo ra leo vào
Con kiến mà leo cành đào
Leo phải cành cụt leo vào leo ra.

Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi lúa chửa chia vè
Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang

Cái cò lặn lội bờ sông
Gánh gạo đưa chồng tiếng khóc nỉ non
– Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trẩy nước non Cao Bằng
Ở nhà có nhớ anh chăng?
Để anh kể nỗi Cao Bằng mà nghe.
Lính vua, lính chúa, lính làng
Nhà vua bắt lính cho chàng phải ra
Giá vua bắt lính đàn bà
Để em đi đỡ anh vài bốn năm
Bởi vua bắt lính đàn ông
Tiền lưng, gạo bị sắm trong nhà này.

Nhà vua bắt lính đàn ông
Mười sáu tuổi rưỡi đứng trong công đường
Ai trông thấy lính chả thương
Đứng trong công đường nước mắt như mưa.

Anh đi lưu trú Bắc Thành
Để em khô héo như nhành từ bi.

Ba năm trấn thủ lưu đồn
Ngày thì canh điếm, tối dồn việc quan
Chém tre, đẵn gỗ trên ngàn
Hữu thân, hữu khổ phàn nàn cùng ai !
Miệng ăn măng trúc, măng mai
Những giang cùng nứa biết ai bạn cùng?
Ngang lưng thì thắt bao vàng
Đầu đội nón đấu, vai mang súng dài
Một tay thì cắp hỏa mai
Một tay cắp giáo, quan sai xuống thuyền
Tùng tùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Chàng ơi, đi trẩy kẻo trưa
Cửa nhà cậy mẹ, nắng mưa nhờ trời
Em đi cầu khấn Phật trời
Biết than cùng trời, biết thở cùng ai!

Trời ơi, sinh giặc làm chi!
Cho chồng tôi phải ra đi chiến trường!

Tiếng ai than khóc nỉ non
Hay vợ chú lính trèo hòn Cù Mông?

Chém cha cái giặc, chết hoang
Làm cho thiếp phải gánh lương theo chồng
Gánh từ xứ Bắc, xứ Đông
Đã gánh theo chồng lại gánh theo con.

Thương nàng đã đến tháng sinh
Ăn ở một mình trông cậy vào ai?
Rồi khi sinh gái, sinh trai
Sớm khuya, mưa nắng lấy ai bạn cùng?
– Sinh gái thì em gả chồng
Sinh trai lấy vợ mặc lòng thiếp lo.

Trời mưa cho lúa thêm bông
Cho nước thêm cá, cho sông thêm thuyền
Cho dù, cho lọng gãy then,
Cho võng, cho cáng một phen nhuộm bùn.

Con vua thì lại làm vua
Con sãi ở chùa thì quét lá đa
– Bao giờ dân nổi can qua
Con vua thất thế lại ra quét chùa.

Con vua lấy thằng bán than
Nó đưa lên ngàn cũng phải đi theo
Con quan đô đốc, đô đài
Lấy thằng thuyền chài cũng phải lụy mui.

Vua Lê ba mươi sáu tàn vàng
Thấy gái đi đàng, ngó ngó nom nom
Cô nào óng ả, son son
Vua đóng cũi hòm, đem trẩy về kinh.

Ra đường mắt mải nhìn anh
Để chân anh vấp đổ thành nhà vua.

Trăm quan có mắt như mờ
Để cho Huy quận vào rờ chánh cung (1)

(1). Chỉ việc Đặng Thị Huệ vợ chúa Trịnh Sâm tư thông với Huy quận công Hoàng Đình Bào.

Đục cùn thì giữ lấy tông
Đục long, cán gãy còn mong nỗi gì (1)

Làng Vạc ăn cỗ ông Nghè (2)
Làng Vận, làng Chè kéo đá ông Đăng (3)

(1). Tông: chỉ Trịnh Tông (tức Trịnh Khải), Cán: chỉ Trịnh Cán – đều là con của Trịnh Sâm. Trịnh Sâm đã phế bỏ con cả là Trịnh Tông (con Dương Thái phi) lập con thứ là Trịnh Cán (con Đặng Tuyên phi) làm thế tử, gây ra cuộc tranh giành ngôi vị giữa Tông và Cán.
(2). Làng Vạc: Làng Cổ Đô, xã Thiêu Đô, làng Vận là làng Vận Quy, làng Chè là lảng Trà Phượng, tất cả đều thuộc huyện Thiệu Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
(3). Ông Đăng: Đăng quận công Nguyễn Khải, đời Lê Mạt, bắt nhân dân Thanh Hóa kéo đá xây sinh tự, làng Vạc có người đỗ đạt được coi là đất nhà quan không phải đi phu, còn hai làng Vận, làng Chè không có người đỗ đạt phải phục dịch rất vất vả.

Cơm ăn mỗi bữa mỗi lưng
Bao giờ gánh đá ông Đăng cho rồi?
Cơm ăn mỗi bữa một vơi
Bao giờ gánh đá cho rồi ông Đăng?

Nhất nhì bộ Lại, bộ Binh
Nhì thì bộ Hộ, bộ Hình cũng xong
Thứ ba thì đến bộ Công
Nhược bằng bộ Lễ, lậy ông xin về (1)

(1). Xưa kia làm quan bộ Lại có diều kiện bóc lột nhân dân bằng các bộ Lại, bộ Binh, v. v… nên bọn quan lại đều không muốn bổ nhiệm vào bộ Lễ.

Bộ Binh, bộ Hộ, bộ Hình
Ba bộ đồng tình bóp vú con tôi.

Quan văn mất một đồng tiền
Xem bằng quan võ mất quyền quận công.

Trâu buộc thì ghét trâu ăn
Quan võ thì ghét quan văn dài quần.

Tậu voi chung với Đức Ông
Vừa phải đánh cồng, vừa phải hót phân.

Ra đường võng giá nghênh ngang
Về nhà hỏi vợ: cám rang đâu mày?
– Cám rang tôi để cối xay
Hễ chó ăn mất thì mày với ông!

Em là con gái đồng trinh
Em đi bán rượu qua dinh ông Nghè
Ông Nghè sai lính ra ve
– Trăm lậy ông Nghè , tôi đã có con
– Có con thì mặc có con
Thắt lưng cho giòn mà lấy chồng quan.

Đàn ông quan tắt thì chầy
Đàn bà quan tắt nửa ngày nên quan.

Đất đâu đất lạ đất lùng
Đi làm lại có thổ công ngồi bờ?
Thổ công không có người thờ
Cho nên mới phải vẩn vơ ngoài đồng. (1)

(1). Câu này nhằm đả kích bọn địa chủ ngồi ở đầu bờ để ốp người làm công.

Con ơi! nhớ lấy câu này:
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan!

Ruộng bà, bà đứng bà trông
Thì tôi cũng cấy hàng sông bằng thuyền
Bà về thêm gạo, thêm tiền
Thì tôi mới cấy cho liền hàng tay. (1)

(1). Bài này và một số bài tiếp sau đây phản ánh một hình thức đấu tranh
với bọn địa chủ, đòi tăng tiền công của những người nông dân đi làm thuê.
(2). Hàng sông: Khoảng cách giữa những hàng lúa.
(3). Hàng tay: khoảng cách giữa những cây lúa theo chiều ngang. Cấy hàng sông theo thuyền ý nói là cấy rất thưa thì người cấy tốn ít công, còn chủ ruộng thì thu hoạch được ít thóc.

Bớt đồng thì bớt cù lao
Bớt ăn, bớt uống thì tao bớt làm (1).

Người sao kẻ quạt, người hầu
Người sao nắng dãi, mưa dầu long đong?

Con làm con ở cùng bà,
Vang mình sốt mẩy con ra ngoài đường.

(1). Cù lao: khó nhọc

Người sao kiệu bạc ngai, vàng,
Người sao cuối chợ đầu làng kêu ca?
Người sao đệm thảm, chiếu hoa,
Người sao ngồi đất lê la suốt ngày?
Người sao chăn đắp, màn quây,
Người sao trần trụi thân thây bẽ bàng?
Người sao võng giá nghênh ngang,
Người sao đầu đội vai mang nặng nề?
Người sao năm thiếp bảy thê,
Người sao côi cút,sớm khuya chịu sầu?
Người sao kẻ quạt, người hầu,
Người sao nắng dãi, mưa dầu long đong?

Cơm cha cơm mẹ đã từng,
Con đi làm mướn kiếm lưng cơm người.
Cơm người khổ lắm, mẹ ơi!
Chẳng như cơm mẹ vừa ngồi vừa ăn.

Cậu cai buông áo em ra
Để em đi chợ kẻo mà chợ trưa
Chợ trưa rau nó héo đi
Lấy gì nuôi mẹ, lấy gì nuôi con.

Em là con gái cửa dinh,
Qua dinh cụ lớn, cụ rình cụ nom
Của em chẳng để ai dòm
Cáo già hết ngó, mèo con cũng chừa.

Đồn rằng quan trạng có danh
Cưỡi ngựa một mình chẳng phải vịn ai
Vua khen quan tướng có tài
Ban cho cái áo với hai đồng tiền
Đánh giặc thì chạy trước tiên
Xông ra trận tiền cởi khố giặc ra
Giặc sợ, giặc chạy về nhà
Trở về gọi mẹ mổ gà khao quân.

Sang chơi thì cứ mà sang
Đừng bắt dọn đàng mà nhọc lòng dân.

Ban ngày quan lớn như thần
Ban đêm quan lớn tần ngần như ma.

Người trên ở chẳng chính ngôi
Khiến cho kẻ dưới chúng tôi hỗn hào
Người trên ở chẳng được cao
Khiến cho kẻ dưới lộn nhào lên trên.

Nên ra trên kính dưới nhường
Chẳng nên đạp hắt bên đường mà đi.

Sông Hương nước chảy lờ đờ
Dưới sông có đĩ, trên bờ có vua.

Phá đền rồi lại làm đền
Nào ai cướp nước, tranh quyền chi ai!
Rồng chầu ngoài Huế, ngựa tế Đồng Nai
Nước sông trong sao lại chảy hoài?
Thương người xa xứ lạc loài đến đây. (*)

(*). Nguyễn Ánh sau khi lên làm vua đã phá hủy một số đền đài, di tích cũ và bắt nhân dân đi phu xây dựng cung điện mới nên đã bị nhân dân ca thán.

Tháng tám có chiếu vua ra
Cấm quần không đáy người ta hãi hùng
Không đi thì chợ không đông
Đi thì phải lột quần chồng sao đang!
Có quần ra quán bán hàng
Không quần ra đứng đầu làng trông quan. (*)

(*). Theo “Minh Mệnh chính yếu” thì năm Minh Mạng thứ 8 (1828) có đạo dụ bắt thay đổi quần áo. Đến năm Minh Mệnh thứ 18 (1838) lại bắt thay đổi ráo riết hơn.

Từ ngày Tự Đức lên ngôi. (*)
Cơm chẳng đầy nồi, trẻ khóc như ri
Bao giờ Tự Đức chết đi
Thiên hạ bình thì, lại dễ làm ăn.

(*). Tự Đức: Tức Nguyễn Hồng Nhậm (Đức Tông) lên ngôi năm 1848 là ngôi vua thứ tư của triều Nguyễn.

Anh ham xóc đĩa, cò quay
Máu mê cờ bạc lại hay rượu chè
Eo sèo công nợ tứ bề
Kẻ lôi, người kéo, ê hề lắm thay!
Nợ nần, em trả, chàng vay
Kiếp em là kiếp kéo cày đứt hơi!

Cờ bạc nó đã khinh anh
Áo quần bán hết, một manh chẳng còn.
Gió đông nam chui vào đống rạ
Hở mông ra cho quạ nó lôi
Anh còn cờ bạc nữa thôi?

Đêm nằm nghĩ lại mà coi
Lấy chồng đánh bạc như voi phá nhà.

Chồng đánh bạc, vợ đánh bài
Chồng hai ba vợ, vợ hai ba chồng!

Cờ bạc là bác thằng bần
Cửa nhà bán hết, tra chân vào cùm.

Mồ cha con bướm khôn ngoan
Hoa thơm bướm đậu, hoa tàn bướm bay.

Chữ trinh đáng giá nghìn vàng
Từ anh chồng cũ đến chàng là năm
Còn như yêu vụng nhớ thầm
Họp chợ trên bụng đến trăm con người!

Gái chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh chồng đi chơi
Chẳng may quang đứt, lọ rơi
Bò ra lổm ngổm, chín nơi chín chồng.

Gái đâu có gái lạ đời
Chỉ trừ có mỗi ông Trời không chim.

Chém cha cái nước sông Bờ
Tưởng rằng báng nước, ai ngờ báng con.

Trăng lên lu lú đầu non
Số em là số sớm con, muộn chồng.

Phềnh phềnh lớn giữa lớn ra
Mẹ ơi con chẳng ở nhà được đâu
Ở nhà làng bắt mất trâu
Cho nên con phải đâm đầu ra đi.

Không chồng mà chửa mới ngoan
Có chồng mà chửa thế gian đã thường!

Phù thủy, thầy bói, lái trâu
Nghe ba anh ấy đầu lâu không còn. (*)

(*). Còn có câu:
Lái trâu, lái lợn, lái bè
Ba anh lái ấy chớ nghe anh nào.

Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng
Lấy ai thì lấy, tơ hồng nào xe?

Trăm năm, trăm tuổi, trăm chồng
Yêu ai thì bế thì bồng trên tay!

Ngồi buồn đốt một đống rơm
Khói lên nghi ngút chẳng thơm chút nào
Khói lên đến tận Thiên Tào
Ngọc Hoàng phán hỏi: thằng nào đốt rơm?

Tiền buộc dải yếm bo bo
Trao cho thầy bói, đâm lo vào mình.

Thầy bói xem bói cho người
Số thầy thì để cho ruồi nó bâu.

Số cô chẳng giầu thì nghèo
Ngày ba mươi tết thịt treo trong nhà.
Số cô có mẹ, có cha
Mẹ cô đàn bà, cha cô đàn ông
Số cô có vợ có chồng
Sinh con đầu lòng chẳng gái thì trai.

Cốc cốc, lai lai!
Thịt gà xé hai
Thầy mần miếng một
Cơm mà sốt sốt
Thầy mần tám lưng
Con mắt trập trừng
Thầy vơ cả đĩa.

Chập chập thôi lại cheng cheng
Con gà sống thiến để riêng cho thầy
Đơm xôi thì đơm cho đầy
Đơm vơi thì thánh nhà thầy mất thiêng.

Thầy cúng ngồi cạnh giường thờ
Mồm thì lẩm bẩm, tay sờ đĩa xôi.

Hòn đất mà biết nói năng
Thì thầy địa lý hàm răng chẳng còn

Của bụt mất một đền mười
Bụt hãy còn cười, bụt chả lấy cho.

Nam mô một bồ dao găm
Một trăm dao mác
Một vác dao bầu
Một xâu thịt chó…

Thầy thiếp là thầy thiếp ơi! (1)
Nay chuông, mai trống cho tôi động lòng
Bốn con tôi để cho chồng
Tôi theo thầy thiếp, cực lòng tôi thay!

(1). Thầy thiếp: người làm nghề mê tín đánh đồng thiếp đi tìm linh hồn người đã chết.

Khăn chầu, áo ngự xênh xang
Lẳng lơ mấy khúc tình tang, tang tình
Nhác trông lên thấy cô mình
Múa may, nhảy nhót, rập rình với chú cung văn.

Trên chùa có tiểu mười ba
Sư ông mười bốn, vãi già mười lăm
Muốn cho một tháng đôi rằm
Trước là lễ Phật, sau thăm vãi già.

Ba cô đội gạo lên chùa
Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư
Sư về sư ốm tương tư
Ốm lăn, ốm lóc cho sư trọc đầu
Ai làm cho dạ sư sầu
Cho ruột sư héo như bầu đứt dây?
Sông Mơ, sông Mận, sông Đào
Ba con sông ấy chảy vào tuần ty
Em trót yêu anh bụng đã phát phì
Thuốc thang đâu khỏi anh thì bảo tôi
Trót yêu anh dễ đứng, khó ngồi.

Con sâu làm rầu nồi canh
Một người làm đĩ hổ danh đàn bà.

Em là con gái Phủ Từ
Lộn chồng trả của, theo sư chùa Viềng. (*)

(*). Phủ Từ: phủ Từ Sơn thuộc huyện Tiên Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Viềng: tên
một làng trong huyện.

Đói ăn thịt chó nấu giềng
Bán rao mảnh đất lấy tiền nộp cheo
Dù còn thiếu thốn bao nhiêu
Xin làng đừng có cắm nêu ruộng chùa.

Đẻ đứa con trai
Chẳng biết nó giống ai
Cái mắt thì giống ông cai
Cái đầu ông xã, cái tai ông trùm.

Tiểu tôi, tiểu kính tiểu hiền
Bao nhiêu chùa chiền tiểu đốt tiểu đi
Thịt chó tiểu đánh tì tì
Bao nhiêu chỗ lội tiểu thì cắm chông
Nam mô xứ Bắc, xứ Đông
Con gái chưa chồng thì lấy tiểu tôi.

Người ta đi giáo tiền, giáo gạo
Tiểu tôi đi giáo áo, giáo nồi
Nhà nào công đức thì thôi
Nhà nào đi vắng tiểu tôi giáo bò.

Thấy cô yếm trắng, răng đen
Nam mô di phật lại quên mất chùa
Ai mua tiu cảnh thì mua
Thanh la, não bạt, thầy chùa bán cho
Hộ pháp là một quan ba
Long thần chín rưỡi, Thích Ca ba tiền
Còn hai mụ Thiện hai bên
Ai mua bán nốt lấy tiền nộp cheo
Lệ làng thiếu thốn bao nhiêu
Đẵn cây tre cộc cắm nêu sân chùa.

Cái dùi sơn son
Cái mõ sơn son
Ông sư, bà vãi có con rõ ràng!

Sư đang tụng niệm nam mô
Thấy cô cắp giỏ mò cua bên chùa
Lòng sư luống những mơ hồ
Bỏ kinh, bỏ kệ, tìm cô hỏi chào
Ai ngờ cô đi đằng nào
Tay lần tràng hạt , ra vào ngẩn ngơ…

Trai tứ chiếng, gái giang hồ
Gặp nhau mà nổi cơ đồ cũng nên.

Bươm bướm mà đậu cành hồng
Đã yêu con chị còn bồng con em.

Con chim ăn quả bồ nu
Ai làm nên nỗi thầy tu đeo xiềng?
Thầy tu ăn nói cà riềng (*)
Em thưa quan cả đóng xiềng thầy tu.

(*). Ăn nói cà riềng: ăn nói tục tĩu, bậy bạ, xỏ xiên.

Người ta câu bể, câu sông
Tôi đây câu lấy con ông, cháu bà
Có chồng thì nhả mồi ra
Không chồng em cắn, em tha lấy mồi.

Cái cò là cái cò quăm
Mày hay đánh vợ, mày nằm với ai?
– Có đánh thì đánh sớm mai
Chớ đánh chập tối chẳng ai cho nằm!

Năm quan tiền tốt bó mo
Làm tờ ký chỉ, chị cho chuộc chồng
Măng non nấu với gà đồng
Chơi nhau một trận xem chồng về ai?
Già gan cướp được chồng người
Non gan hết vía rụng rời chân tay!

Em như một đóa hoa đào
Mẹ cha muốn phước bắt vào nhà tu
Trăm nghìn lạy chúa Giê Su
Nhà tu đừng hóa nhà tù giam em.

Muốn ăn đậu phụ, tương Tàu
Mài dao, đánh kéo gọt đầu đi tu
Mồm thì tụng niêm nam mô
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm.

Một tay gõ mõ, gõ chuông
Một tay bóp vú cô nàng nghe kinh.

Nam mô đức Phật Quan Âm
Bao nhiêu vãi mầm thì lấy tiểu tôi.

Vợ sư sắm sửa cho sư
Áo nâu, tràng hạt, mũ lu tày giành
Để sư sướng kiếp tu hành!

Con ai đem bỏ chùa này
Nam mô di Phật, con thầy thầy nuôi.

Sư đi chùa mốc, sân rêu
Mõ khuya ai gõ, chuông chiều ai khua
Vinh hoa là cái trò đùa
Đã tu không trót lại mua trò cười.

VI. NHẬN ĐỊNH VỀ CON NGƯỜI VÀ VIỆC ĐỜI

Đố ai lặn xuống vực sâu
Mà đo miệng cá, uốn câu cho vừa.

Sông sâu còn có kẻ dò
Lòng người nham hiểm ai đo cho cùng.

Đố ai lượm đá quăng trời
Đan gầu tát biển, ghẹo người cung trăng.

Trăng mờ còn tỏ hơn sao
Dẫu rằng núi lở còn cao hơn đồi.

Nhiễu điều phủ lấy giá gương
Người trong một nước thì thương nhau cùng.

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Một cây làm chẳng nên non
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao.

Làm trai quyết chí tang bồng
Sao cho tỏ mặt anh hùng mới cam.

Làm trai cho chí nên trai
Công danh chớ vội, nợ nần chớ lo.
Khi nên trời giúp công cho
Làm trai năm liệu bảy lo mới hào
Trời sinh trời chẳng phụ nào
Phong vận gặp hội anh hào ra tay
Trí khôn rắp để dạ này
Có công mài sắc có ngày nên kim.

Trăm năm lòng gắn, dạ ghi
Dẫu ai đem bạc đổi chì mặc ai.

Trăm năm ai chớ bỏ ai
Chỉ thêu nên gấm, sắt mài nên kim.

Ai ơi, giữ chí cho bền
Dù ai xoay hướng, đổi nền mặc ai.

Làm người suy chín xét xa
Cho tường gốc, ngọn, cho ra vắn dài.

Dù ai nói đông, nói tây
Lòng ta vẫn vững như cây giữa rừng
Dù ai nói ngả nói nghiêng
Lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân.

Chớ thấy sóng cả mà lo
Sóng cả mặc sóng, chèo cho có chừng (1)
Làm người phải đắn, phải đo
Phải cân nặng nhẹ, phải dò nông sâu (2).

(1). còn có câu:
Chớ thấy bể rộng mà lo
Bể rộng mặc bể, chèo cho có ngần.
(2). Còn có câu:
Người khôn chưa đắn đã đo
Chưa đi đến bể đã dò nông sâu

Làm người mà chẳng biết suy
Đến khi nghĩ lại còn gì là thân.

Làm người ăn tối lo mai
Việc mình hồ dễ để ai lo lường.

Chim khôn tránh bẫy, tránh giò
Người khôn tránh kẻ hồ đồ mới khôn.

Ra vời mới biết nông sâu
Ở trong lạch hói biết đâu mà dò.

Non cao cũng có đường trèo
Đường dẫu hiểm nghèo cũng có lối đi.

Nước lã mà vã nên hồ
Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan.

Cây cao thì gió càng lay
Càng cao danh vọng, càng dày gian truân.

Hoa sen mọc bãi cát lầm
Tuy rằng lấm láp vẫn mầm hoa sen.

Trong đầm gì đẹp bằng sen
Lá xanh, bông trắng lại chen nhụy vàng
Nhụy vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn.

Trăm năm bia đá thì mòn
Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ.

Tiếng lành đồn xa, tiếng dữ đồn xa
Tiếng lành, tiếng dữ đồn ba ngày đường.

Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Tay đâu mà bịt miệng người thế gian. (*)

Thế gian chẳng ít thì nhiều
Không dưng ai dễ đặt điều cho ai.

(*). Còn có câu:

Chỉ đâu mà buộc ngang trời
Thuốc đâu mà chữa cho người lẳng lơ.

Rừng có mạch, vách có tai
Kẻ trong chưa tỏ, người ngoài đã hay.

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn gạo nhớ kẻ đâm xay, giần sàng. (*)

(*). Còn có câu:

Ăn quả nhớ kẻ trồng cây
Ăn khoai nhớ kẻ cho dây mà trồng

Thói thường gần mực thì đen
Anh em bạn hữu phải nên chọn người
Những người lêu lổng, chơi bời
Cùng là lười biếng ta thời tránh xa.

Đời người có một gang tay
Những ai ngủ ngày còn được nửa gang.

Giầu đâu đến kẻ ngủ trưa!
Sang đâu đến kẻ say sưa tối ngày!

Ăn được, ngủ được là tiên
Không ăn, không ngủ, mất tiền thêm lo.

Vì sông nên phải lụy thuyền
Những như đường liền ai phải lụy ai?

Nói lời thì giữ lấy lời
Đừng như con bướm đậu rồi lại bay.

Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.

Kim vàng ai nỡ uốn câu
Người khôn ai nỡ nói nhau nặng lời.

Rượu nhạt uống lắm cũng say
Người khôn nói lắm dẫu hay cũng nhàm.

Khôn ngoan đá đáp người ngoài
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.

Ở nhà nhất mẹ, nhì con
Ra đường lắm kẻ còn giòn hơn ta.

Ai ơi chớ vội cười nhau
Ngẫm mình cho kỹ trước sau hãy cười.

Ai ơi chớ vội cười nhau
Cười người hôm trước, hôm sau người cười.

Lươn ngắn lại chê trạch dài
Thờn bơn méo miệng, chê trai lệch mồm.

Chuột chù chê khỉ rằng hôi
Khỉ mới trả lời: “cả họ mày thơm”.

Chì khoe chì nặng hơn đồng
Sao chì chẳng đúc nên cồng, nên chiêng?

Vàng thì thử lửa, thử than
Chuông kêu thử tiếng, người ngoan thử lời.

Đèn khoe đèn tỏ hơn trăng
Đèn ra trước gió còn chăng hỡi đèn?
Trăng khoe trăng tỏ hơn đèn
Cớ sao trăng lại chịu luồn đám mây?

Khôn ngoan chẳng lọ là nhiều
Người khôn mới nói nửa điều đã khôn.

Trông mặt mà bắt hình dong
Con lợn có béo cỗ lòng mới ngon.

Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng vừa khéo nuôi con
Những người béo trục, béo tròn
Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày.

Những người con mắt lá răm
Lông mày lá liễu đáng trăm quan tiền.

Người xấu duyên lặn vào trong
Bao nhiêu người đẹp duyên bong ra ngoài.

Rượu ngon bất luận be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may.

Tốt gỗ hơn tốt nước sơn
Xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người.

Đàn ông nông nổi giếng khơi
Đàn bà sâu sắc như cơi đựng trầu.

Thức lâu mới biết đêm dài
Ở lâu mới biết là người có nhân.

Mật ngọt càng tổ chết ruồi
Những nơi cay đắng là nơi thật thà.

Đàn đâu mà gảy tai trâu
Đạn đâu bắn sẻ, gươm đâu chém ruồi.

Dã tràng xe cát biển Đông
Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì.

Cây cao, bóng mát không ngồi
Ra ngồi chỗ nắng, trách trời không mưa.

Cầm vàng mà lội qua sông
Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng.

Từ rày buộc chỉ cổ tay
Chim đậu thì bắn, chim bay thì đừng!

Đi đâu mà vội mà vàng
Mà vấp phải đá mà quàng phải dây
Thủng thẳng như chúng em đây
Chẳng đá nào vấp, chẳng dây nào quàng.

Vào rừng chẳng biết lối ra
Thấy cây núc nác ngỡ là vàng tâm
Đi đâu mà vội mà lầm
Núc nác thì nổi, vàng tâm thì chìm.

Khi vui non nước cùng vui
Khi buồn sáo thổi, kèn đôi cũng buồn.

Trời còn khi nắng khi mưa
Ngày còn khi sớm, khi trưa, nữa người.

Xưa nay thế thái, nhân tình
Vợ người thì đẹp, văn mình thì hay.

Yêu ai thì nói quá ưa
Ghét ai nói thiếu, nói thừa như không.

Yêu nhau cau sáu bổ ba
Ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười.

Yêu nhau vạn sự chẳng nể
Một trăm chỗ lệch cũng kê cho vừa. (*)

(*). Có bản chép:
Yêu nhau mọi việc chẳng nề
Dù trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng

Thương thì củ ấu cũng tròn
Không thương thì củ bồ hòn cũng vuông.

Năng mưa thì tốt lúa vườn
Năng đi năng lại coi thường nhau ra.

Càng thắm thì lại càng phai
Thoang thoảng hoa nhài mà lại thơm lâu.

Cái vòng danh lợi cong cong
Kẻ hòng ra khỏi, người mong bước vào.

Cá trong lờ đỏ hoe con mắt
Cá ngoài lờ ngúc ngắc muốn vô
Tung tăng như cá trong lờ
Trong ra không được, ngoài ngờ là vui.

Đồng tiền không phấn, không hồ
Sao mà khéo điểm, khéo tô mặt người.

Ai về nhắn với ông câu
Cá ăn thì giật để lâu mất mồi.

Áo dài chẳng nệ quần thưa
Bảy mươi có của cũng vừa mười lăm.

Trai khôn tìm vợ chợ đông
Gái không tìm chồng giữa chốn ba quân.

Thế gian còn dại chưa khôn
Sống mặc áo rách, chết chôn áo lành.

Hãy cho bền chí câu cua
Dù ai câu trạch, câu rùa mặc ai.

Lòng ta ta đã chắc rồi
Dù ai giục đứng giục ngồi chớ nao.

Nói chín thì nên làm mười
Nói mười làm chín kẻ cười người chê.

Nên ra tay kiếm tay cờ
Chẳng nên thì chớ đừng nhờ cậy ai.

Người ta hữu tử hữu sanh (sinh)
Sống lo xứng phận, thác dành tiếng thơm.

Muốn sang thì bắc cầu kiều
Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy.

Bạn bè là nghĩa tương tri
Sao cho sau trước một bề mới nên.

Ở đời phải phải phân phân
Cây đa cậy thần, thần cậy cây đa.

Trọng người người lại trọng thân
Khinh đi khinh lại như lần trôn quang.

Tranh quyền, cướp nước chi đây
Coi nhau như bát nước đầy là hơn.

Đi cho biết đó, biết đây
Ở nhà với mẹ biết ngày nào khôn.

Nói người phải ngẫm đến ta
Thử sờ lên gáy xem xa hay gần.
Nói người phải ngẫm đến thân
Thử sờ lên gáy xem gần hay xa.

Nứơc trong khe suối chảy ra
Mình chê nước đục, mình đà trong chưa?

Ông thánh còn có khi lầm
Huống hồ bà lão tám nhăm tuổi đầu.

Ngồi buồn kể ruốc nhau ra
Ruốc ông thì thối, ruốc bà thì thơm.

Có đỏ mà chẳng có thơm
Như hoa râm bụt, nên cơm cháo gì?

Thế gian họ nói không lầm
Lụa tuy vóc trắng, vụng cầm cũng đen.

Người gian thì sợ người ngay
Người ngay chẳng sợ đường cày khúc khuyu.

Đừng khôn ngoan, chớ vụng về
Đừng cho ai lận, chớ hề lận ai. (*)

Chớ nghe lời phỉnh, tiếng phờ
Thò tay vào lờ, mắc kẹt cái hom.

(*). Còn có câu:
Khôn ngoan ba chốn, bốn bề
Đừng cho ai lấn, chớ hề lấn ai.

Măng chua nấu cá ngạnh nguồn
Sự đời đắp đổi, khi buồn khi vui.

Yêu nhau xé lụa may quần
Ghét nhau kể nợ, kể nần nhau ra.

Cậy tài, cậy khéo, khoe không
Đừng có cậy của đa ngôn quá lời
Của thì mặc của ai ơi
Đừng có cậy của coi người như rơm.

Nghèo nhân, nghèo nghĩa thì lo
Nghèo tiền, nghèo bạc chớ cho là nghèo!

Sông sâu nước chảy đá mòn
Của kia ăn hết, nghĩa còn ghi xương.

Ai ơi cứ ở cho lành
Tu nhân tích đức để dành về sau.

Muốn no thì phải chăm làm
Một hạt thóc vàng, chín hạt mồ hôi.

Của đời cha mẹ để cho
Làm không, ăn có, của kho cũng rồi.

Đói thì đầu gối phải bò
Cái chân hay chạy, cái dò hay đi.

Ai ơi chớ vội cười nhau
Cây nào mà chẳng có sâu chạm cành.

Khi giầu chẳng có đỡ ai
Đến khi hoạn nạn chẳng ai đỡ mình.

Ở sao cho toại lòng người
Ở rộng người cười, ở hẹp người chê.

Vay chín thì trả cả mười
Phòng khi túng lỡ có người cho vay.

Trách người một, trách ta mười
Bởi ta bạc trước, cho người tệ sau.

Nghèo thì dễ ở, dễ ăn
Giầu thì cửa ngáng, cửa ngăn khó vào.

Giầu người ta chẳng có tham
Khó thì ta liệu, ta làm ta ăn.

Thà rằng ăn bát cơm rau
Còn hơn cá thịt nói nhau nặng lời.

Có cây mới có dây leo
Có cột, có kèo mới có đòn tay.

Lúc khó thì chẳng ai màng
Làm nên quan lớn chán vàn người yêu.

Lúc nghèo thì chẳng ai nhìn
Đến khi đỗ trạng chín nghìn anh em.

Có tiền chán vạn người hầu
Có bấc có dầu, chán vạn người khêu.

Giầu cha giầu mẹ thì mừng
Giầu cô, giầu bác thì đừng có trông.

Khó mà biết lẽ, biết lời
Biết ăn, biết ở hơn người giầu sang.

Ăn nhiều thì hết miếng ngon
Nói nhiều thì hết lời khôn hóa rồ.

Thói đời hay chuộng bề ngoài
Nào ai, ai đã biết ai hơn nào.

Ai ơi gương bể (vỡ) khó hàn
Chỉ đứt khó nối, người ngoan khó tìm.

Nước trong ai chẳng rửa chân
Hoa thơm ai chẳng tới gần gốc cây.

Thà rằng ăn nửa quả hồng
Còn hơn ăn cả chùm sung chát lè.

Đừng tham của rẻ, của ôi
Những của đầy nồi là của chẳng ngon.

Chim khôn nói tiếng rảnh rang
Người khôn nói tiếng dịu dàng dễ nghe.

Hoa thơm ai dễ bỏ rơi
Người khôn ai nỡ nặng lời với ai.

Hoa thơm ai chẳng nâng niu
Người khôn ai chẳng kính yêu mọi bề.

Khôn thì trong trí lượng ra
Dại thì học lỏm người ta bề ngoài.

Người khôn ăn miếng thịt gà
Tuy rằng ăn ít nhưng mà ngon lâu
Người dại ăn trái bồ câu
Ăn no bĩnh bầu chẳng biết mùi ngon.

Em ơi, anh dặn em này
Sông sâu chớ lội, đò đầy chớ đi.

Thương nhau nước đục cũng trong
Ghét nhau nước chảy giữa dòng cũng dơ.

Gừng già, gừng rụi, gừng cay
Anh hùng càng cực, càng dầy nghĩa nhân.

Đem chuông đi đấm nước người
Chẳng kêu cũng đấm ba hồi lấy danh.

Sự đời nước mắt soi gương
Càng yêu nhau lắm càng thương nhớ nhiều. (*)

Ngựa mạnh chẳng quản đường dài
Nước kiệu mới biết tài trai anh hùng.

(*). Còn có câu:
Trời sinh con mắt là gương
Người ghét ngó ít, người thương ngó nhiều.

Bị rách nhưng lại có vàng
Tuy rằng miếu đổ thành hoàng còn thiêng.

Sự đời nghĩ cũng nực cười
Một con cá lội, mấy người buông câu.

Kinh đô cũng có người rồ
Thôn quê cũng có sinh đồ trạng nguyên.

Ăn rươi chịu bão cho cam
Không ăn chịu bão, thế gian cũng nhiều.

Thứ nhất là tu tại gia
Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa.

Muốn may thì phải có kim
Muốn hay thì ắt phải tìm người xưa.

Làm trai đi biển, đi sông
Vào đây gặp bãi cát nông mà buồn.

Làm trai chí ở cho bền
Đừng lo muộn vợ, chớ phiền muộn con.

Làm trai cho đáng nên trai
Xuống Đông Đông tĩnh, lên Đoài Đoài yên.

Thương thay con cuốc giữa trời
Dẫu kêu ra máu có người nào hay.

Gỗ trắc đem lót ván cầu
Yến sào đem nấu với đầu cá rô.

Một mâm có mấy đĩa ngon
Dì ghẻ ních hết để con nhịn thèm.

Cơm ăn ba bữa thì cho
Gạo mượn sét chén xách mo dì đòi.

Đò dọc phải tránh đò ngang
Ngụ cư phải tránh dân làng cho xa.

Lụt nguồn trôi trái lòn bon
Cha chết mẹ còn chịu cảnh mồ côi.

Canh bầu nấu với cá trê
Ăn vô cho mát mà mê vợ già.

Một ngày ở với người khôn
Cũng như cá vượt Vũ môn hóa rồng.

Thuyền rồng chở lá mù u
Người khôn ở với người ngu bực mình.

Có bột mới quấy nên hồ
Có vôi, có gạch mới tô nên nhà.

Chẳng lo bán ế chợ ròng
Khách năng qua lại, đói lòng phải mua.

Được mùa chê gạo vô hơi
Mất mùa ăn cám trời ơi, hỡi trời.

Không cha có chú ai ơi
Thay mặt, đổi lời chú cũng như cha.

Đừng thấy miếu rách mà khinh
Miếu rách mặc miếu, thần linh hãy còn.

Chẻ tre lựa cật đan nia
Có chồng con một, khỏi chia gia tài.

Có con hơn của anh ơi
Của như buổi chợ họp rồi lại tan.

Đói cơm hơn kẻ no rau
Nghèo mà quân tử hơn giầu tiểu nhân.

Chim quyên xuống đất cùng quyên
Anh hùng lỡ vận vẫn nguyên anh hùng.

Ngán thay sửa dép vườn dưa
Dù ngay cho mấy cũng ngờ rằng gian.

Chẳng lo chi đó cười đây
Bão rồi mới biết cội cây cứng mềm.

Gió day thì mặc gió day
Xin cho cây cứng, lá dày thì thôi.

Chữ rằng: họa phúc vô môn
Tìm giầu thì dễ, tìm khôn khó tìm.

Không ham bịch lúa anh đầy
Tham ba hàng chữ làm thầy thế gian.

Tham vàng phụ ngãi ai ơi
Vàng thời đã hết ngãi tôi vẫn còn.

Ai ơi đừng phụ mụt măng
Mụt măng có nhỏ cũng bằng cây tre.

Nhịn miệng tiếp khách đường xa
Cũng bằng gửi của chồng ta ăn đường.

Chim bay mỏi cánh chim ngơi
Đố ai bắt được chim trời mới ngoan.

Lên non mới biết non cao
Xuống biển cầm sào cho biết cạn sâu.

Giầu ba mươi tuổi chớ mừng
Khó ba mươi tuổi con đừng vội lo.

Hoài lời nói kẻ vô tri
Một trăm gánh chì đúc chẳng nên chuông.

Chợ đang đông em không toan liệu
Chợ tan rồi em bán chịu chẳng ai mua.

Quý chi một nải chuối xanh
Năm bảy người dành cho mủ dính tay.

Giúp nhau khi đói mới hay
Nói chi bù cặp những ngày ấm no.

Trồng cây cũng muốn cây xanh
Nuôi con cũng muốn con thành thất gia.

Thuyền không bánh lái thuyền quày
Em không cha mẹ ai bày em nên?

Trời mưa bong bóng phập phồng
Mẹ đi lấy chồng con ở với ai
Chẳng thà ăn sắn, ăn khoai
Không ở dượng ghẻ om tai láng giềng.

Khúc sông bên lở, bên bồi
Bên lở lở mãi, bên bồi bồi thêm.

Đi buôn không lỗ thì lời
Đi ra cho biết mặt trời, mặt trăng.

Tiếc vàng đổ lộn với thau
Tiếc con chim phượng xuống bàu le le.

Chân mình còn lấm mê mê
Lại đi cầm đuốc mà rê chân người.

Chê tôm ăn cá lù đù
Chê thằng bụng bự, thằng gù lại ưng.

Nơi nào chí quyết một nơi
Làm người nay đổi mai rời sao nên.

Chớ thấy áo rách mà cười
Cái giống gà nòi lông nó lơ thơ.

Con chim ham ăn còn mắc cái tròng
Người mà ham của sao khỏi mắc vòng gian nan?

Con quạ ăn dưa, bắt con cò phơi nắng
Nghĩ chuyện đời, con cò trắng con quạ đen
Con quạ mà biết mình đen
Nó đâu có dám mon men tới cò.

Con còng dại lắm ai ơi
Uổng công se cát, sóng bồi lại tan.

Của trời trời lại lấy đi
Giương hai con mắt làm chi được trời.

Dừa tơ bẹ dúm tốt tàng
Giầu sang có chỗ, điếm đàng có nơi.

Đói lòng ăn quả khổ qua
Nuốt vô thì đắng, nhả ra bạn cười.

Đất có bồi có lở
Người có dở có hay
Coi theo thời mà ở
Chọn theo cỡ mà xài
Dầu ai ỷ thế cậy tài
Em giữ lòng thục nữ dùi mài gương trong.

Hiu hiu gió thổi đầu non
Những người uống rượu là con Ngọc Hoàng
Ngọc Hoàng ngự tại ngai vàng
Thấy con uống rượu hai hàng lệ rơi
Con rằng con uống con chơi
Hay đâu con uống con rơi xuống sình.

Khế với chanh một lòng chua xót
Mật với gừng một ngọt một cay.

Mèo hoang lại gặp mèo hoang
Anh đi ăn trộm gặp nàng mói khoai. (*)

(*). Mói: đào, bới (trộm)

Đời xưa quả báo còn chầy
Đời nay quả báo một dây nhãn tiền.

Hoa thơm ở chốn lầu cao
Gió nam thổi xuống hướng nào cũng thơm.

Một vũng nước trong, con cá vùng cũng đục
Dầu đỏ như cục son tầu, gần mực cũng đen.

Muốn cho mau lớn mà chơi
Mới lớn lên rồi già lại theo sau.

Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai bới ai đào mà sâu?

Nước giữa đồng anh chê trong chê đục
Nước vũng trâu đầm anh hì hục khen ngon.

Nước lớn rồi lại nước ròng
Đố ai bắt được con còng trong hang.

Thế gian lắm chuyện khôi hài
Hễ ăn được cá tính bài bỏ nơm.

Rủ nhau đi bẻ dành dành (*)
Dành dành không bẻ, bẻ cành mẫu đơn.

Rủ nhau xuống biển bắt cua
Bắt cua cua kẹp, bắt rùa rùa bơi.

(*). Dành dành: loại cây có hoa trắng và thơm.

Ruộng hoang người ta khẩn còn thành
Huống chi ruộng thuộc sao đành bỏ hoang.

Tằm vương tơ, nhện cũng vương tơ
Mấy đời tơ nhện được như tơ tằm.

Vai mang túi bạc kè kè
Nói quấy nói quá người nghe ầm ầm
Trong lưng chẳng có một đồng
Lời nói như rồng cũng chẳng ai nghe.

Hạt tiêu nó bé nó cay
Đồng tiền nó bé nó hay cửa quyền.

Khi vui thì vỗ tay vào
Đến khi hoạn nạn thì nào thấy ai.

Của mình thì giữ bo bo
Của người thì thả cho bò nó ăn.

Hèn mà làm bạn với sang
Chỗ ngồi chỗ đứng có ngang bao giờ.

Xuềnh xoàng đánh bạn xuềnh xoàng
Trẻ vui bạn trẻ, già choang bạn già.

Hơn nhau tấm áo tấm quần
Thả ra bóc trần ai cũng như ai.

Tham vàng bỏ đống gạch đầy
Vàng thì ăn hết, gạch xây lên thành.

Trống chùa ai đánh thì thùng
Của chung ai khéo vẫy vùng thành riêng?!

Thua thì thua mẹ, thua cha
Cá sinh một lứa ai mà thua ai.

Thương ai thương cả đường đi
Ghét ai ghét cả tông ty, họ hàng.

Vịt chê lúa lép không ăn
Chuột chê nhà trống ra nằm bụi tre.

Vên vên cứng, dành dành cũng cứng
Mù u tròn, trái nhãn cũng tròn
Vàng thau tuy trộn một bồn
Anh là tay thợ lựa, lòn phải ra.

B. CA DAO THỜI KỲ BỊ THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Giặc Tây đánh đến Cần Giờ (1)
Biểu (bảo) đừng thương nhớ, đợi chờ uổng công.

Chớ tham đồng bạc con cò
Bỏ cha bỏ mẹ đi phò Lang sa. (2)

(1). Cửa Cần Giờ: ở Gia Định quân Pháp qua Cần Giờ tiến vào chiếm Gia Định.
(2). Đồng bạc con cò: cũng gọi là đồng bạc trắng.

Trèo lên chuông Bụt múa cờ
Tưởng làm nên danh phận, ai ngờ thú Tây.

Vạn Niên là Vạn Niên nào?
Thành xây xương lính, hào đào máu dân. (*)

(*). Câu này nói về việc vua Tự Đức xây thành Vạn Niên cơ tức Khiêm Lãng làm cho binh lính và thợ thuyền nhiều người phải bỏ mạng. Năm 1866 binh lính và thợ thuyền ở đây đã nổi dậy làm cuộc khởi nghĩa dưới sự lãnh đạo của anh em Đoàn Hữu Trưng nhưng cuộc khởi nghĩa này đã thất bại.

Thằng Tây nó ở bên Tây
Bởi vua chúa Nguyễn rước thầy đem sang
Cho nhà, cho cửa tan hoang
Cho thiếp ngậm đắng, cho chàng nuốt cay
Cha đời mấy đứa theo Tây!
Mồ ông, mả tổ voi giầy biết chưa? (*)

(*). Đây là lời nhân dân kể tội triều đình nhà Nguyễn. Vua nhà Nguyễn lúc bấy giờ là Nguyễn Gia Long (Nguyễn Ánh) đã cầu viện thực dân Pháp để diệt nhà Nguyễn Tây Sơn và gây nên cái họa mở đường cho quân đội thực dân Pháp xâm lược nước ta.

Gáo vàng đem múc giếng Tây
Khôn ngoan cho lắm, tớ thầy người ta.

Khi đi cửa Hội còn không (*)
Khi về cửa Hội đồn trong, điếm ngoài.

(*). Cửa Hội: thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An, ý nói quân Pháp đã xâm chiếm mất cửa Hội rồi.

Tiếc quả hồng ngâm đem cho chuột vọc
Tiếc người ngọc đem cho ngâu vầy
Tiếc của nước Nam ta xây dựng,
để cho Tây tung hoành.

Trời ơi! trông xuống mà coi
Nước Nam cơ khổ, “con trời” hai ông:
Hàm Nghi chính thực vua trung
Còn như Đồng Khánh là ông vua xằng.

Hoàng triều Bảo Đại tứ niên
Đã ba cái lụt, lại liền cái keo (sâu keo)
Xã dân đâu đấy túng nghèo
Cho lên ngũ tỉnh phải theo đồn điền
Ông Tây lắm bạc, nhiều tiền
Bỏ ra sức giấy mộ liền cu ly.

Sáu giờ còn ở kinh đô
Chín giờ xe lửa đã vô cửa Hàn (1)
Mười giờ bước xuống xà lan
Bóp bụng mà chịu, nát gan trăm bề
Bước lên tầu, tầu thổi súp-lê (2)
Khoát khăn kéo lại, bảo em về nuôi con
Đầu hè có buồng chuối non
Để dành xáo, ghế cho con ăn dần
Khoai từ, khoai choái, khoai nần
Còn một vạt bắp trước sân chưa già
Với hũ sắn lát trong nhà
Để giành xáo, ghế cho qua tháng ngày.
Bớ em ơi!
Ráng mà nuôi con chim chuyền cho biết liệng, biết bay
Mai sau anh có thác, hắn giữ cái ngày tiên linh. (3)

(1). Cửa Hàn: tức là cửa Đà Nẵng ngày nay.
(2). Súp-lê: còi tầu (tiếng Pháp: soufflet).
(3). Ngày tiên linh: ngày giỗ tổ tiên.

Con cò mà đậu cành tre
Thằng Tây bắn súng cò què một chân
Hôm sau ra chợ Đồng Xuân
chú Khách mới hỏi: sao chân cò què?
Cò rằng: cò đứng bụi tre
Thằng Tây bắn súng, cò què một chân…

Ở bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân
nước xanh như tàu lá
Ở bên tê Hà Thân ngó qua bên ni Hàn
thấy phố xá nghênh ngang
Kể từ ngày Tây lại đất Hàn
Đào sông Câu Nhí, bòn vàng Bồng Miêu
Dặn tấm lòng ai dỗ đừng xiêu
Ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau.

Hạch triều Hàm Nghi
Thi đời Đồng Khánh
Bái mạnh (mệnh) toàn quyền
Bà đầm ngồi trửa (giữa)
Ông lớn ngồi bên
Các ông lậy xuống, trông lên
Vinh hoa, áo mũ, nhục quên mất rồi.

Ngó xuống sông Hương, nước xanh như tàu lá
Ngó về Đập Đá, phố xá nghênh ngang
Từ ngày Tây lại, sứ sang (*)
Đi xâu, nộp thuế, làm đàng không ngơi.

(*). Sứ: tức công sứ: viên quan cai trị người Pháp đứng đầu một tỉnh.

Chém cha những đứa sang giầu
Cậy thần, cậy thế cúi đầu nịnh Tây.

Một nhà sinh đặng ba vua:
Vua sống, vua chết, vua thua chạy dài. (*)

(*). Vua sống: Đồng Khánh, vua chết: Kiến Phúc, vua thua chạy dài: Hàm Nghi. Cả ba người này đều là anh em trong một nhà.

Trời cao thăm thẳm, đất dày
Bao giờ lính mộ sang Tây được về
Vợ con thương nhớ ủ ê
Biết rằng sang đấy có về được không?

Nhờ ai cho gà đỏ đuôi
Nhờ ai mà được cưỡi voi, ngồi thuyền
Nhờ ai có bạc, có tiền
Nhờ ai mà có nàng tiên đứng hầu
Nhờ ai có ruộng, có trâu
Nhờ ai mà có mâm thau, đũa ngà
Nhờ ai có lụa, có là
Vợ gọi bằng bà, con gọi cậu, cô
Đến khi giặc Pháp tràn vô
Quan nhỏ tếch mất, quan to chạy dài
Ai ơi, có thế chăng ai?

Đời mô cơ cực như ni
Đồng Khánh ở giữa, Hàm Nghi hai đầu. (*)

Người làm ruộng, kẻ làm thuê
Đi buôn, đi bán mọi nghề kém thua.

(*). Đồng Khánh ở giữa: tức kinh đô Huế, nơi giặc Pháp đã chiếm được. Hàm Nghi hai đầu: chỉ những vùng có phong trào Cần Vương từ Quảng Trị, Quảng Bình ra Bắc và từ Quảng Nam vào đến Bình Thuận.

Ai ơi! đi lính cho Tây
Con dại cả bầy bỏ lại ai nuôi?
Chuyện đâu có chuyện lạ đời
Quan đi theo giặc bắt người lành ngay
Nghìn năm nhớ mãi nhục này
Theo Tây được thả, đánh Tây bị tù. (*)

(*). Câu này nhằm chửi Bùi Thức Kiên là tổng đốc Hà Nội năm 1873 đã thả bọn lính cờ vàng đi theo tên cướp nước Francis Garnier và bắt giam quân nghĩa dũng của Văn thân Hà Nội tự động lập ra để chống thực dân Pháp. Câu này được phổ biến thành ca dao chửi bọn Việt gian nói chung.

Duy Tân niên hiệu vua ta
Năm nay Quý Sửu mới là tất niên
Dân tình nhiều nỗi truân chuyên
Lúa chiêm thì xấu, thuế thêm nặng nề
Người làm ruộng, kẻ làm thuê
Đi buôn, đi bán mọi nghề kém thua.

Mười giờ ông chánh về Tây
Cô Ba ở lại lấy thầy thông ngôn.

Bể Đông có lúc vơi đầy
Mối thù đế quốc có ngày nào quên.

Kể từ lính mộ ra đi
Ở nhà nhiều nỗi sầu bi thất tình
Sự này bởi tại triều đình
Đêm nằm nghĩ lại phận mình gian nan.

Rủ nhau ra tới cửa Hàn
Thấy đang tập lính dư ngàn, dư trăm
Thương chàng thiếp cũng phải ra thăm
Chàng qua bên Tây địa biết mấy năm mới về?
Tham chi bạc trắng thằng Tây
Anh đi lính mộ bỏ bầy con thơ.

Chim bay về mỏm Sơn Trà
Chàng đi lính mộ xa là quá xa
Sự này bởi tại Lang sa
Cho nên đũa ngọc mới xa mâm vàng.

Thóc đâu mà nộp cho Tây
Nó ăn cho béo, nó đầy đọa ta
Hỡi này các bạn nông gia!
Bảo nhau đừng nộp thóc ta cho thù.

Đất này là đất tổ tiên
Đất này chồng vợ bỏ tiền ra mua
Bây giờ Nhật, Pháp kéo hùa
Chiếm trồng đay lạc, ức chưa hỡi trời!

Ruộng ta ta cấy ta cầy
Không nhường một bước cho bầy Nhật – Tây
Chúng mày lảng vảng tới đây
Rủ nhau gậy, cuốc đuổi ngay khỏi làng.

Bao giờ đuổi giặc Nhật, Tây?
Để em được sống những ngày ấm no
Cực thân em đẩy xe bò
Cho phường giặc nước ô tô, nhà lầu.

Áo em, áo chiếu mo cau
Áo phường giặc cướp rặt màu tơ len
Ai về nhắn chị cùng em
Có đi giết giặc cho em theo cùng.

Lỡ lầm vào đất cao su
Chẳng tù thì cũng như tù chung thân.

Đồn Tây đãi cát ra vàng
Nghe ai dụ dỗ mà chàng vào đây?

Cao su đi dễ khó về
Khi đi trai tráng, khi về bủng beo
Cao su đi dễ khó về
Khi đi mất vợ, khi về mất con
Cao su xanh tốt lạ đời
Mỗi cây bón một xác người công nhân
Có đi mới biết Mê Kông
Có đi mới biết thân ông thế này
Mê Kông chôn xác hàng ngày
Có đi mới biết bàn tay xu Bào. (*)

(*). Tên một thằng cai đồn điền cao su nổi tiếng tàn ác. (xu: tức là surveillant: người kiểm soát)

Cây cao su quý hơn người
Mỗi khi cây bệnh cây thời nghỉ ngay
Lang ta cho chí lang Tây
Đêm đêm lo lắng, ngày ngày chăm nom
Còn ta đau ốm, gầy còm
Đau không được nghỉ, chết hòm cũng không.

Ngày ngày nghe tiếng còi tầm
Như nghe tiếng vọng từ âm phủ về
Tiếng còi não nuột, tái tê
Bước vào hầm mỏ như lê vào tù.

Làm thì chẳng kém đàn ông
Thế mà kém gạo, kém công, kém tiền.
Một ngày hai sáu đồng xu
Đi sương về mù, khổ lắm ai ơi!

Lầm than cực khổ thế này!
Xúc than, cuốc đất suốt ngày lọ lem.

Đau đẻ cũng phải xúc than
Đẻ rơi cũng mặc, kêu van cũng lờ.

Nghỉ việc không gạo bỏ nồi
Ốm no bò dậy, không người chăm nom. (*)

Sáng ngày vác cuốc trèo non
Tối về mới biết mình còn sống đây.

(*). Ốm no: ốm chán, ốm chê.

Nhà thương vô có, ra không
Chị đi kiếm chồng ra bãi tha ma.

Thẻ tôi lĩnh có hai đồng
Ông cai lĩnh hộ, trừ công năm hào.

Cây mắm cò quăm, cây xú cò queo
Thắt lưng cho chặt mà theo anh về
Ăn cơm với cá mòi he
Lấy chồng Cẩm Phả, đun xe suốt đời.

Ông cai ơi hỡi ông cai!
Công tôi làm được đúng hai mươi ngày
Làm sao mà đến kỳ này
Công hai mươi ngày hụt mất hào tư.

Cái cân có quỷ, có ma
Gạo vào một lối, gạo ra một đường
Thẻ tôi ba mươi sáu ký rõ ràng
Về nhà, khảo lại chỉ còn ba mươi.

Ai đi Uông Bí, Vàng Danh
Má hồng để lại, má xanh mang về.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tục ngữ phong dao (nguyễn Văn Ngọc, NXB Minh Đức, H, 1957) tập I, II.
2. Tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam (Vũ Ngọc Phan, in lần thứ 7, NXB KHXH, H, 1971).
3. Hợp tuyển thơ văn Việt Nam – Phần Văn học dân gian (NXB Văn học, H, 1973)
4. Hát ví Nghệ Tĩnh (Nguyễn Chung Anh, NXB Văn – Sử – Địa, H, 1958).
5. Hát phường vải (Ninh Viết Giao, NXB Văn hóa, H, 1961)
6. Hát giặm Nghệ-Tĩnh (Nguyễn Đổng Chi, Ninh Viết Giao, NXB Sử học, H, 1962).
7. Dân ca quan họ Bắc Ninh (Nguyễn Văn Phú, Lưu Hữu Phước, NXB Văn hóa, H, 1965)
8. Dân ca Thanh Hóa (Nhóm Lam Sơn, NXB Văn học, H, 1965).
9. Dân ca Bình-Trị-Thiên (Trần Việt Ngữ, Thành Duy, NXB Văn hóa, H, 1967).
10. Dân ca Nam Trung Bộ (Trần Việt Ngữ, Trương Đình Quang… NXB Văn hóa, H, 1966).
11. Dân ca Nam Bộ (Ban nghiên cứu âm nhạc – Bộ Văn hóa, H, 1959).
12. Ca dao Việt Nam trước Cách mạng (Viện Văn học, NXB Văn học, H, 1963).
13. Ca dao kháng chiến (NXB Quân đội nhân dân, H, 1961).
14. Tục ngữ Việt Nam (Chu Xuân Diên, Lương Văn Đang, Phương Tri, NXB KHXH, H, 1975).
15. Các tập tư liệu sưu tập và điều tra văn học dân gian của cán bộ và sinh viên khoa ngữ văn, trường ĐHTH Hà Nội trong các đợt đi thực tập, phục vụ và công tác ở các địa phương. Đặc biệt là các tập ca dao, dân ca đã biên soạn hoàn chỉnh: hát ví Hà Bắc, hát đúm Thủy Nguyên, dân ca Nam Bộ, hát đố, hát trống quân Hà-Sơn-Bình, ca dao Nam Hà).

MỤC LỤC

Lời giới thiệu

TỤC NGỮ

I. Quan niệm về giới tự nhiên
II. Đời sống vật chất
III. Đời sống xã hội
IV. Đời sống tinh thần – những quan niêm về nhân sinh.

CA DAO

A. CA DAO THỜI KỲ PHONG KIẾN

I. Lao động và các nghề nghiệp
II. Lịch sử và đất nước
III. Tình yêu nam nữ
IV. Hôn nhân và gia đình
V. Đấu tranh chống phong kiến và tệ nạn xã hội
VI. Nhận định về con người và việc đời

B. CA DAO THỜI KỲ BỊ THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC

Chịu trách nhiêm xuất bản:

Giám đốc: PHẠM VĂN AN
Tổng biên tập: NGUYỄN NHƯ Ý
Biên tập lần đầu:
LƯƠNG VĂN PHÚ
Biên tập tái bản:
ĐINH THÁI HƯƠNG
Trình bày bìa:
HÀ TRÌ

———————————————————————–

In 1000 cuốn, khổ 13 x 19. Tại xưởng in NXB Văn hóa Dân tộc.
Giấy phép xuất bản số: 232/CXB – 270
In xong và nộp lưu chiểu tháng 1 năm 1999.

———————————————————————–

HẾT

CA DAO TRỮ TÌNH VIỆT NAM

PHAN HÁCH

Tuyển chọn và giới thiệu

NHÀ XUẤT BẢN HẢI PHÒNG

(Năm 2006)

LỜI GIỚI THIỆU

Ca dao trữ tình Việt Nam đóng một vai trò quan trọng không thể thiếu trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam.
Nó là sự biểu hiện của cách tư duy, cách đề cập và cách nói về các đề tài trong cuộc sống tinh thần như: tâm tư, tâm linh và tình cảm của người dân Việt Nam. Mảng ca dao này được nảy sinh và đúc kết qua nhiều thế hệ, nó là sự phản ánh và tổng kết của con người Việt Nam từ các mặt của đời sống như: lao động sản xuất, sinh hoạt hàng ngày, tình yêu đôi lứa, các quá trình dựng nước và giữ nước… xuyên suốt một chặng đường dài 4000 năm lịch sử hình thành và phát triển của đất nước và con người Việt Nam.
Hy vọng đây sẽ là một tư liệu bổ ích cung cấp cho bạn đọc hiểu thêm phần nào về sự phong phú, súc tích và đa dạng trong mảng văn hóa dân gian của dân tộc ta.

Trúc xinh trúc đứng bờ ao
Em xinh em đứng nơi nào cũng xinh
Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Thấy em anh cũng muốn thương
Nước thì muốn chảy nhưng mương chưa đào
Em về lo liệu thế nào
Để cho nước chảy lọt vào trong mương.

Hỡi cô tát nước quang mây!
Cho anh một gáo tưới cây ngô đồng
Cây ngô đồng cành cao cành thấp
Ngọn ngô đồng lá dọc lá ngang
Quả dưa gang ngoài xanh trong trắng
Quả mướp đắng ngoài trắng trong vàng
Từ ngày anh gặp được nàng
Lòng càng ngao ngán, dạ càng ngẩn ngơ.

Vì cam cho quýt đèo bòng
Vì em nhan sắc cho lòng anh thương.

Hoa thơm xuống đất cũng thơm
Em giòn, em rách, đói cơm cũng giòn.

Răng đen nhưng nhức hạt dưa
Miệng cười tủm tỉm như chưa có chồng
Chưa chồng anh kiếm chồng cho
Chưa con anh kiếm con cho mà bồng.

Vào vườn trảy quả cau con
Anh thấy em giòn, muốn kết nhân duyên
Hai má có hai đồng tiền
Càng nom càng đẹp, càng nhìn càng ưa
Anh đã có vợ con chưa?
Mà anh ăn nói gió đưa ngọt ngào.

Trúc xinh trúc mọc đầu đình
Em xinh em đứng một mình cũng xinh.

Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Trúc xinh trúc mọc bờ ao
Em xinh em đứng chỗ nào cũng xinh.

Tay nâng chén muối, đĩa gừng
Gừng cay, muối mặn xin đừng quên nhau.

Nếu mà không lấy được em
Anh về đóng của, cài rèm đi tu
Tu mô cho em tu cùng
May ra thành Phật thờ chung một chùa.

Lá này gọi lá xoan đào
Tương tư gọi nó thế nào hở em!
Lá khoai anh ngỡ lá sen
Bóng trăng anh ngỡ bóng đèn em khêu.

Đói lòng ăn nửa quả sim
Uống lưng bát nước, đi tìm người thương
Người thương, ơi hỡi người thương!
Đi đâu mà để buồng hương lạnh lùng?

Ai về đường ấy hôm mai
Gửi dăm điều nhớ, gửi vài điều thương
Gửi cho đến chiếu đến giường
Gửi cho đến chốn buồng hương em nằm.

Hôm qua anh đến chơi nhà
Thấy mẹ nằm võng, thấy cha nằm giường
Thấy em nằm đất, anh thương
Anh ra kẻ chợ đóng giường tám thang
Bốn góc thì anh thếp vàng
Bốn chân thếp bạc, tám thang chạm rồng
Bây giờ phải bỏ giường không
Em đi lấy chồng, phí cả công anh!

Từ ngày em bén duyên chàng
Như chuông khác tiếng, như vàng pha thau
Từ ngày ta bén duyên nhau
Như áo phải dầu, gột cũng chẳng phai
Bây giờ chàng đã nghe ai
Áo hoen mặc áo, dầu phai mặc dầu.

Ai làm cho bướm lìa hoa
Cho chim xanh nỡ bay qua vườn hồng
Ai đi muôn dặm non sông
Để ai chứa chất sầu đong vơi đầy.

Chẳng yêu nhau được thì thôi
Xin chàng đừng tẩy nước vôi mà nồng
Chẳng yêu nhau được thì đừng
Xin chàng chớ tẩy nước gừng mà cay.

Có yêu thì nói rằng yêu
Chẳng yêu thì nói một điều cho xong
Làm chi dở đục, dở trong
Lờ lờ nước hến cho lòng tương tư.

Có nên thì nói là nên
Chẳng nên sao để đấy quên đây đừng
Làm chi cho dạ ngập ngừng
Đã có cà cuống thì đừng hạt tiêu.

Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cội, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng.

Mình về mình nhớ ta chăng?
Ta về ta nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen.

Sông sâu cá lội mất tăm
Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ
Chờ anh chờ ngẩn, chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa đào.
Chờ anh cho tuổi em cao
cho duyên em muộn, má đào em phai.

Nhớ ai nhớ mãi thế này
Nhớ đêm quên ngủ, nhớ ngày quên ăn.

Nhớ ai con mắt lim dim
Chân đi thất thểu như chim tha mồi
Nhớ ai hết đứng lại ngồi
Ngày đêm tơ tưởng một người tình nhân
Nhớ ai em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa.

Chẳng chè, chẳng chén, sao say
Chẳng thương, chẳng nhớ sao hay đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể bắc, đi tìm bể đông.

Ai về đường ấy hôm mai
Gửi dăm điều nhớ, gửi vài điều thương
Gửi cho đến chiếu đến giường
Gửi cho đến chốn buồng thương em nằm.

Ai xinh thì mặc ai xinh
Ông tơ chỉ quyết xe mình với ta
Thủy chung em giữ trọn lời
Chết đi thì chịu, lìa đôi không lìa
Hồng Hà nước đỏ như son
Chết đi thì chớ, sống còn lấy anh.

Ra về tay nắm lấy tay
Mặt nhìn lấy mặt, lòng say lấy lòng.

Yêu nhau chẳng lấy được nhau
Con lợn bỏ đói, buồng cau bỏ già
Bao giờ xum họp một nhà
Con lợn lại béo, cau già lại non.

Anh về cuốc đất trồng cau
Cho em trồng ghé cây trầu một bên
Mai này trầu nọ lớn lên
Cau kia ra trái làm lên cửa nhà.

Đêm qua trời sáng, trăng rằm
Anh đi qua cửa, em nằm không yên
Mê anh chẳng phải mê tiền
Thấy anh lịch sự, có duyên, dịu dàng
Thấy anh em cũng mơ màng
Tưởng rằng đâu đấy phượng hoàng kết đôi
Thấy anh chưa kịp ngỏ lời
Ai ngờ anh đã vội rời gót loan
Thiếp tôi mê mải canh tàn
Chiêm bao như thấy có chàng ở bên.

Khi xưa ai biết ai đâu
Chỉ vì điếu thuốc, miếng trầu nên quen
Khi xưa biển rộng, sông dài
Sao lưới chả mắc, sao chài chả quăng?
Bây giờ sông đã chắn đăng
Còn mang lưới mắc, chài quăng làm gì.

Mình về sao được mà về
Mặt trăng còn đó, lời thề còn đây.

Mình nói với ta mình hãy còn son
Ta đi qua ngõ thấy con mình bò
Con mình những đất cùng tro
Ta đi gánh nước tắm cho con mình.

Khi say một chén cũng say
Khi nên tình nghĩa một ngày cũng nên.

Ra về lòng lại dặn lòng
Chanh chua chớ phụ, ngọt bòng chớ ham.

Mong sao anh biến ra tằm
Em biến ra nống, ta nằm chung chơi
Khi nào cho hợp hai nơi
Ghé tai nói nhỏ những lời thủy chung.

Nắng đâu nắng mãi thế này
Nắng suốt cả ngày chẳng thấy bóng râm
Hỡi người thục nữ tri âm
Có muốn đứng mát thì cầm lấy ô.

Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng, quai tua dịu dàng
Bảy thương nết ở khôn ngoan
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt có tình với ai.

Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua chùa Thầy
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.

Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no, tắm mát, đậu cành cây đa
Cực lòng em phải nói ra
Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn.

Nhớ ai, em những khóc thầm
Hai hàng nước mắt đầm đầm như mưa
Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai?

Cổ tay em trắng như ngà
Con mắt em liếc như là dao cau
Miệng cười như thể hoa ngâu
Cái khăn đội đầu như thể hoa sen.

Thân em như củ ấu gai
Ruột trong thì trắng, vỏ ngoài thì đen
Ai ơi, nếm thử mà xem!
Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

Người yêu ta để trên cơi
Nắp vàng đậy lại, để nơi giường thờ
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy, dậy sờ thì không.

Trèo lên cây bưởi hái hoa
Bước xuống vườn cà, hái nụ tầm xuân.
Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc
Em có chồng, anh tiếc lắm thay!
Ba đồng một mớ trầu cay
Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không?
Bây giờ em đã có chồng
Như chim vào lồng, như cá cắn câu.
Cá cắn câu, biết đâu mà gỡ!
Chim vào lồng, biết thủa nào ra!

Cây oằn vì bởi trái sai
Xa em vì bởi ông mai ít lời.

Thà rằng chẳng biết cho xong
Biết ra như xúc, như đong lấy sầu.

Đêm qua ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ.
Buồn trông con nhện giăng tơ
Nhện ơi, nhện hỡi, nhện chờ mối ai?
Buồn trông chênh chếch sao mai
Sao ơi, sao hỡi, nhớ ai sao mờ.

Bao giờ cho chuối có cành
Cho sung có nụ, cho hành có hoa
Bao giờ chạch đẻ ngọn đa
Sáo đẻ dưới nước thì ta lấy mình
Bao giờ cây cải làm đình
Gỗ lim thái ghém thì mình lấy ta
Công anh chăn nghé bấy lâu
Bây giờ nghé đã thành trâu ai cày
Công anh tháng đợi năm chờ
Sao em đứt chỉ, lìa tơ cho đành?

Bấy lâu lên ngọn sông Tân
Muốn tìm cá nước phải tìm trời mưa
Tiếc công đắp đập, be bờ
Để ai quẩy đó, mang lờ đến đơm.

Trên trời có đám mây xanh
Ở giữa mây trắng, xung quanh mây vàng
Ước gì anh lấy được nàng
Để anh mua gạch Bát Tràng về xây
Xây dọc anh lại xây ngang
Xây hồ bán nguyệt cho nàng rửa chân.

Cô kia cắt cỏ một mình
Cho anh cắt với chung tình làm đôi
Cô còn cắt nữa hay thôi?
Cho anh cắt với làm đôi vợ chồng.

Cô kia cắt cỏ bên sông
Có muốn ăn nhãn thì lồng sang đây
Sang đây anh nắm cổ tay
Anh hỏi câu này: có lấy anh không?

Dẫu rằng đá nát, vàng phai
Ba sinh phải giữ lấy lời ba sinh
Duyên kia có phụ chi tình
Mà toan sẻ gánh chung tình làm hai
Bây giờ người đã nghe ai
Thả chông đường nghĩa, rắc gai lối tình
Nhớ lời hẹn ước đinh ninh
Xa xôi ai có thấu tình cho ai?

Đêm khuya thiếp mới hỏi chàng
Cau xanh ăn với trầu vàng xứng chăng?
Trầu vàng nhá lẫn cau xanh
Duyên em sánh với tình anh tuyệt vời.

Đấy vàng, đây cũng đồng đen
Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ
Đấy em như tượng mới tô
Đây anh như người ngọc đồ trong tranh.

Đêm qua nguyệt lặn về tây
Sự tình kẻ đấy, người đây còn dài
Trúc với mai, mai về trúc nhớ
Trúc trở về mai nhớ trúc không?
Bây giờ kẻ bắc người đông
Kể sao cho xiết tấm lòng tương tư.

Cổ cao ba ngấn cổ cao
Răng đen hột đỗ, miệng cười có duyên.

Của chua ai thấy chẳng thèm
Em cho chị mượn chồng em vài ngày
Chồng em đâu phải trâu cày
Mà cho chị mượn cả ngày lẫn đêm.

Cô kia má đỏ hòn than
Nằm đâu ngủ đấy lại toan chê chồng
Chê chồng chẳng bõ chồng chê
Chê chồng thì ít, chồng chê thì nhiều.

Cô kia tóc bỏ đuôi gà
Đến đây anh hỏi một vài ba câu
Tóc cô chính tóc ở đâu
Hay là tóc mượn ở đâu chắp vào?

Lẳng lơ cũng một anh chồng
Chính chuyên cũng chẳng nằm không đêm nào
Một đêm tám, chín trai vào
Lòng tôi nhân đức chẳng để anh nào ra không.

Chớ thấy áo rách mà cười
Những giống gà nòi lông nó lơ thơ
Chớ thấy áo dài mà sang
Bởi không áo ngắn phải mang áo dài.

Em là cô gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Áo rách có mụn, vá ngay lại lành.

Anh đồ ơi hỡi anh đồ
Có ăn cơm tấm trộn ngô thì vào
Cơm tấm còn đãi dưới ao
Ngô thời chưa bẻ, anh vào làm chi.

Yêu nhau đi nhớ về thương
Em về cái chốn buồng hương anh nằm
Thấy chiếu mà chả thấy chăn
Thấy chỗ mình nằm chẳng thấy mình đâu.

Ba cô cùng ở một nhà
Cùng đội nón thắm, cùng ra thăm đồng
Ai làm cái nón quai thao
Để cho anh thấy cô nào cũng xinh.

Hỡi cô yếm thắm đeo bùa
Bố mẹ có bán anh mua nửa người
Anh mua từ rốn đến đùi
Từ bụng đến mặt mặc trời với em.

Đàn ông nằm với đàn ông
Như gốc như gác, như chông như chà
Đàn ông nằm với đàn bà
Như lụa như lĩnh, như hoa trên cành.

Cái cò, cái mẩy, cái tôm
Cái tôm quặp lại, lại ôm cái cò
Cái cò mày mổ cái trai
Cái trai quặp lại, lại nhai cái cò.

Chị dại đã có em khôn
Lẽ đâu mang giỏ thủng trôn đi mò
Em khôn em ở trong bồ
Chị dại chị ở kinh đô chị về
Kinh đô thì mặc kinh đô
Chị đi cho lắm thì đồ chị tan.

Đàn ông đóng khố đuôi lươn
Đàn bà mặc yếm hở lườn mới xinh.

Cô kia khăn trắng tang ai
Nhất tang cha mẹ, thứ hai tang chồng.
Tang chồng thì vứt khăn đi
Tang cha, tang mẹ ta thì tang chung.

Lấy chồng thì phải theo chồng
Chồng đi hang rắn, hang rồng cũng đi.

Chém cha con mắt lá khoai
Liếc chồng thì ít, liếc trai thì nhiều.

Có chồng càng dễ chơi ngang
Đẻ ra con thiếp, con chàng, con ai?

Sư đi chùa mốc sân rêu
Mõ khuya ai gõ, chuông chiều ai khua?
Vinh hoa là cái trò đùa
Đã tu không trót lại mua trò cười.

Lẳng lơ cho rách yếm ra
Về nhà hỏi mẹ, yếm thông hoa không bền.

Đôi ta như đũa trong kho
Không tề, không tiện, không so cũng bằng
Đôi ta như thể con bài
Đã quyết thì đánh, đừng nài thấp cao
Đôi ta như đá với dao
Năng liếc thì sắc, năng chào năng quen.

Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng than thở với mây vài lời
Nữa mai rồng ngược, mây xuôi
Biết bao giờ lại nối lời nước non.

Ấy ai dắt mối tơ mành
Cho thuyền quen bến, cho anh quen nàng
Tơ tằm đã vấn thì vương
Đã trót dan díu thì thương nhau cùng.

Mình em như cây thầu dầu
Ngoài tươi, trong héo, giữa sầu tương tư
Đêm qua ba bốn lần mơ
Chiêm bao thì thấy, dậy sờ thì không.

Đôi ta như lúa đòng đòng
Đẹp duyên nhưng chẳng đẹp lòng mẹ cha
Đôi ta như chỉ xe ba
Thầy mẹ xe ít, đôi ta xe nhiều.

Xa xôi dịch lại cho gần
Làm thân con nhện mấy lần vương tơ
Chuồn chuồn mắc phải tơ vương
Nào ai quấn quýt thì thương nhau cùng
Anh về học lấy chữ nhu
Chín trăng em đợi, mười thu em chờ.

Người sao hẹn một thì nên
Người sao chín hẹn thì quên cả mười.

Cổ tay đã trắng lại tròn
Cầm vào mát rượi như hòn tuyết đông.

Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng:
Tre non đủ lá đan sàng nên chăng?
– Đan sàn thiếp cũng xin vâng
Tre vừa đủ lá, non chăng hỡi chàng?

Yêu nhau quá đỗi nên mê
Tỉnh ra mới biết kẻ chê, người cười
Yêu nhau chẳng lọ chiếu giường
Dẫu rằng tầu lá che sương cũng tình.

Gió đưa cây sậy nằm dài
Ai làm thục nữ buồn hoài không vui?

Có trăng anh phụ lồng đèn
Đặng nơi sang trọng, lời nguyền quên ngay.

Trăng lên khỏi núi trăng tròn
Xuân xanh em mấy mà giòn rứa em?
Trên đầu lược giắt, trâm cài
Tảo tần khuya sớm chưa ai chung tình.

Dao vàng mà liếc đá vàng
Mắt anh anh ngỏ, mắt nàng nàng ngơ
Ngỏ chi cho thế gian ngờ
Đó thương đó biết, đây chờ đây hay…

Đi đêm sợ kẻ gian tà
Nói vào thì ít, nói ra thì nhiều
Yêu nhau không lấy được nhau
Mượn dao, đánh kéo, cạo đầu đi tu.

Chiều chiều mang giỏ hái dâu
Hái dâu không hái, nhớ câu ân tình.

Chưa quen đi lại cho quen
Tuy rằng đóng cửa mà then không cài
Kẻ khinh người trọng, vãng lai
Song le cũng chửa có ai bằng lòng.

Chuông vàng đánh nhẹ kêu thanh
Trai khôn nói ít, gái lanh biết nhiều
Rựa hay chẳng bén bằng rìu
Muốn nên cơ nghiệp phải chiều lòng em.

Chừng nào cho được bắt tay
Gối luồn một một gối dạ này mới ưng
Chừng nào cho mõ xa đình
Hạc xa hương án chung tình mới xa
Trèo lên cây bưởi hái bòng
Đưa dao ta gọt xem lòng ngọt chua
Bòng em không ngọt, không chua
Tiền trăm, bạc núi chưa mua được bòng.

Thương thì kết tóc, giao tay
Không thương én liệng, nhạn bay mặc lòng
Một mai trống lủng khó hàn
Dao cùn khó đứt, người ngoan khó tìm.

Chiều nay có kẻ thất tình
Tựa mai mai ngả, tựa đình đình xiêu
Không ai hôm sớm bạn cùng
Nương mai mai gẫy, dựa tùng tùng xiêu.

Xấu xa cũng thể chồng ta
Cho dù tốt đẹp cũng ra chồng người
Chim quyên ăn trái nhãn lồng
Thia lia quen chậu, vợ chồng quen hơi.

Đừng thấy em bé mà chòng
Ngày sau em lớn phải lòng em ngay.

Qua đồng ghé nón thăm đồng
Đồng bao nhiêu lúa thương chồng bấy nhiêu.

Tay nâng khăn gói sang sông
Mồ hôi ướt đẫm, thương chồng phải theo.

Ớt nào là ớt chẳng cay
Gái nào là gái chẳng hay khen chồng.

Không thiêng cũng thể bụt nhà
Dầu khôn dầu dại cũng là chồng em.

Lấy chồng chẳng biết mặt chồng
Đêm nằm tơ tưởng ngỡ ông láng giềng.

Chim khôn mắc phải lưới hồng
Hễ ai gỡ được, đền công lạng vàng
Đền vàng anh chẳng lấy vàng
Hễ anh gỡ được thì nàng lấy anh
Đố ai quét sạch lá rừng
Để ta khuyên gió, gió đừng rung cây
Rung cây, rung cội, rung cành
Rung sao cho chuyển lòng anh với nàng.

Bồng bồng cõng chồng đi chơi
Đi đến chỗ lội đánh rơi mất chồng
Chị em ơi! cho tôi mượn cái gầu sòng
Để tôi tát nước cho chồng tôi lên.

Rủ nhau xuống bể mò cua
Đem về nâú quả mơ chua trên rừng
Em ơi! chua ngọt đã từng
Non xanh, nước bạc xin đừng quên nhau.

Chớ chê em xấu, em đen
Em như nước đục, đánh phèn lại trong.

Chẳng giậm thì thuyền chẳng đi
Giậm thì ván nát, thuyền thì long đanh.

Anh đi đường ấy xa xa
Để em ôm bóng trăng tà năm canh
Nước non một gánh chung tình
Nhớ ai, ai có nhớ mình hay chăng?

Sông sâu cá lội biệt tăm
Chín tháng cũng đợi, một năm cũng chờ
Chờ anh chờ ngẩn chờ ngơ
Chờ hết mùa mận, mùa mơ, mùa đào
Chờ anh cho tuổi em cao
Cho duyên em muộn, má đào em phai.

Đêm qua anh ngủ nhà ngoài
Để em thở vắn, than dài nhà trong.

Chẳng chè, chẳng chén, sao say
Chẳng thương, chẳng nhớ, sao hay đi tìm?
Tìm em như thể tìm chim
Chim ăn bể bắc đi tìm bể đông.

Tỉnh ra lẳng lặng yên nhiên
Tương tư, bệnh phát liên miên cả ngày
Ngỡ rằng duyên nợ đó đây
Xin chàng hãy lại chơi đây chút nào
Cho thiếp tỏ thiệt mới nao!

Nguồn ân bể ái hẹn hò
Một ngày nên nghĩa, chuyến đò nên quen
Công cha nghĩa mẹ thiếp đền
Xin chàng đừng có kết duyên chốn nào
Xin đừng đứng thấp, trông cao
Xin đừng tơ tưởng chốn nào hơn đây
Xin đừng tham gió bỏ mây
Tham vườn táo rụng bỏ cây nhãn lồng
Ba đồng một mớ đàn ông
Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha
Ba trăm một vị đàn bà
Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi.

Bướm già thì bướm có râu
Thấy bông hoa nở, cúi đầu bướm châm
Bướm châm mà bướm lại nhầm
Có bông hoa nở ong châm mất rồi
Bướm bay nửa biển bướm ngừng
Căn duyên trời định nửa chừng mà thôi.

Bao giờ rau diếp làm đình
Gỗ lim làm ghém thì mình lấy ta
Bao giờ trạch đẻ ngọn đa
Bồ câu đẻ nước thì ta lấy mình.

Cảnh chiều lắm kẻ thanh tân
Sao cô nhan sắc mười phân vẹn mười
Nam mô phật độ chúng tôi
Khiến cho anh được vào chơi thiền già.

Cau già quá lứa bán buôn
Em già quá lứa có buồn không em?
Cau già quá lứa bửa phơi
Em già quá lứa có nơi đợi chờ.

Cha đời con gái xứ Đông
Ăn trộm tiền chồng mua khố cho trai
Cha đời con gái xứ Đoài
Ăn trộm tiền mẹ mua khoai cho chồng.

Chính chuyên lấy được chín chồng
Vo viên bỏ lọ gánh chồng đi chơi
Không ngờ quang đứt lọ rơi
Bò ra lổm ngổm chín nơi chín chồng.

Có mới thì nới cũ ra
Mới ở trong nhà, cũ ở ngoài sân
Có bát sứ tình phụ bát đàn
Nâng niu bát sứ vỡ tan có ngày.

Cô kia răng trắng hạt bầu
Hẳn cô người khách ở Tầu mới sang
Cổ cô đeo chuỗi hạt vàng
Bây giờ cô lại vơ quàng vơ xiên.

Cô kia thắt cái lưng xanh
Ăn trộm tiền mẹ để dành cho trai.

Cổ cao ba ngấn cổ cao
Răng đen hạt đỗ, miệng chào có duyên.

Cưới em có cánh con gà
Có dăm sợi bún, có vài hạt xôi!
Cưới em còn nữa anh ơi!
Có một đĩa đậu, hai muôi rau cần
Có xa dịch lại cho gần
Nhà em thách cưới có ngần ấy thôi
Hay là nặng lắm anh ơi!
Để em bớt lại một muôi rau cần?

“Cô kia đội áo đi đâu?”
“Tôi là phận gái làm dâu mới về
Mẹ chồng cay nghiệt, gớm ghê
Tôi ở chẳng được tôi về nhà tôi”.

Cứ gì quần lụa áo tơ
Quần nâu áo vải thơm tho được rồi
Mặc lụa mà sực mùi hôi
Không bằng mặc vải mà không hôi gì.

Cực tình ta lắm bạn ơi!
Một con chim nhạn – mấy nơi đau lòng?
Cực lòng thiếp lắm chàng ơi!
Biết rằng lên ngược xuống xuôi đằng nào.

Đấy vàng đây cũng đồng đen
Đấy hoa thiên lý, đây sen nhị hồ
Đấy em như tượng mới tô
Đấy anh như ngọc họa đồ trong tranh.

Đêm hè gió mát trăng thanh
Em ngồi canh cửi còn anh vá chài
Nhất thương là cái hoa lài
Nhì thương ai đó áo dài ấm thân
Gặp người sao có một lần
Để em thương nhớ tần ngần suốt năm.

Đêm qua dồn dập mưa mau
Gió rung cành ngọc cho đau lá vàng
Trách chàng phụ ngãi tham vàng
Ngô đồng nỡ để phượng hoàng ngẩn ngơ
Biết nhau từ bấy đến giờ
Đã có bướm đậu thì chừa sâu ra.

Trăng bao nhiêu tuổi trăng non
Người bao nhiêu tuổi hãy còn đương xinh
Tai nghe lời nói hữu tình
Chim lồng khôn lẽ cất mình bay cao.

Trầu này thực của em têm
Trầu phú, trầu quý, trầu nên vợ chồng
Trầu này bọc khăn tơ hồng
Trầu này kết nghĩa loan phòng từ đây.

– Trầu vàng còn để trong cơi
Anh kia đũa mốc chớ chòi mâm son
– Trầu vàng đâu mãi trong cơi
Sợ mai trầu héo, trầu ơi là trầu!

Đôi ta như lửa mới nhen
Như trăng mới mọc, như đèn mới khêu.

Lênh đênh một chiếc thuyền tình
Mười hai bến nước biết gửi mình vào đâu?

Đêm qua chớp bể mưa nguồn
Hỏi người tri kỷ có buồn hay không?

Đêm qua ngỏ cửa chờ ai?
Đêm nay cửa đóng then cài khăng khăng
Đến đây chẳng lẽ ngồi không
Nhờ chàng giã gạo cho đông tiếng hò.

Nhớ chàng như vợ nhớ chồng
Như chim nhớ tổ, như rồng nhớ mây
Mấy khi rồng gặp mây đây
Để rồng than thở với mây vài lời
Nữa mai rồng ngược mây xuôi
Biết bao giờ lại nối lời rồng mây!

Bốn mùa: xuân, hạ, thu, đông
Thiếp ngồi dệt vải những trông ngóng chàng
Dừa xanh trên bến Tam Quan
Dừa bao nhiêu trái trông chàng bấy nhiêu

Rượu nằm trong nhạo chờ nem
Anh nằm phòng vắng chờ em một mình.

Yêu nhau tâm trí hao mòn,
Yêu nhau đến thác vẫn còn yêu nhau.

Ước gì anh hóa ra hoa
Để em nâng lấy rồi mà cái khăn
Ước gì anh hóa ra chăn
Để cho em đắp, em lăn, em nằm
Ước gì anh hóa ra gương
Để cho em cứ ngày thường em soi
Ước gì anh hóa ra cơi
Để cho em đựng cau tươi, trầu vàng.

Đường xa thì thật là xa
Mượn mình làm mối cho ta một người
Một người mười chín, đôi mươi
Một người vừa đẹp vừa tươi như mình.

Em là con gái Kẻ Mơ
Em đi bán rượu tình cờ gặp anh
Rượu ngon chẳng quản be sành
Áo rách khéo vá hơn lành vụng may
Rượu nhạt uống lắm cũng say
Áo rách có mụn vá ngay lại lành.

Chim xanh ăn trái xoài xanh
Ăn no tắm mát đậu cành cây đa
Cực lòng em phải nói ra
Chờ trăng trăng xế, chờ hoa hoa tàn.

Bấy lâu lên ngọn sông Tân
Muốn tìm cá nước phải lần trời mưa
Tiếc công anh đắp đập, be bờ
Để ai quẩy đó mang lờ đến đơm!

Mưa từ trong núi mưa ra
Mưa khắp thiên hạ, mưa qua chùa Thầy
Đôi ta bắt gặp nhau đây
Như con bò gầy gặp bãi cỏ hoang.

Đi ngang thấy ngọn đèn chong
Thấy em nho nhỏ muốn bồng mà ru
Đôi ta thương mãi, nhớ lâu
Như sông nhớ nước, như dâu nhớ tằm.

Cách nhau một bức rào thưa
Tay chùi nước mắt, tay đưa miếng trầu.

Thương anh chẳng biết để đâu
Để quán quán đổ, để cầu cầu xiêu.

Cho anh một miếng trầu vàng
Mai sau anh trả lại nàng đôi mâm.

Đêm qua nằm ngủ sập vàng
Trông xuống sập bạc thấy chàng nằm không
Vội vàng cởi áo đắp chung
Tỉnh ra em vẫn nằm không một mình.

Chân mày vòng nguyệt có duyên
Tóc mây gợn sóng, đẹp duyên tơ hồng.

Mong sao anh biến ra tằm
Em biến ra nống, ta nằm chung chơi
Khi nào cho hợp hai nơi
Ghé tai hỏi nhỏ những lời thủy chung.

Nắng đâu nắng mãi thế này
Nắng suốt cả ngày chẳng thấy bóng râm
Hỡi người thục nữ tri âm
Có muốn đứng mát thì cầm lấy ô.

Ai về đằng ấy hôm mai
Gửi dăm cái nhớ gửi vài cái thương
Gửi cho đến chiếu, đến giường
Gửi cho đến tận quê hương chàng nằm
Vắng chàng em vẫn hỏi thăm
Nơi ăn đã vậy, nơi nằm ra sao?

Lược tình em chải trên đầu
Gương tình soi mặt làu làu sáng trong
Ngồi buồn nghĩ đến hình dong
Con dao lá trúc cắt lòng đôi ta.

Cái cò là cái cò con
Mẹ nó yêu nó, nó còn làm thơ
Cái cò bay bổng bay bơ
Lại đây anh gửi xôi khô cho nàng
Đêm về nàng nấu, nàng rang
Nàng ăn có dẻo thời nàng lấy anh.

Nhắn người ở tận chốn xa
Gió trăng là bạn, bướm hoa là tình
Bao giờ duyên ta bén với duyên mình
Cầm bằng câu đối dán đình ngày xuân.

Nhớ khi anh nói anh thề
Con dao lá trúc đặt kề tóc mai
Bây giờ anh đã nghe ai
Con dao lá trúc, tóc mai thẹn thùng
Bây giờ không vẫn hoàn không
Giấm thanh đổ biển mấy thùng cho chua
Nói ra thiên hạ hồ đồ
Tiếng tăm em chịu bao giờ cho vơi
Nói ra em chỉ thẹn lời
Kìa ông trăng sáng soi đôi cau vàng.

Những người thắt đáy lưng ong
Vừa khéo chiều chồng, vừa khéo nuôi con
Những người béo trục béo tròn
Ăn vụng như chớp, đánh con cả ngày
Những người mặt nạc đóm dày
Mo nang trôi sấp biết ngày nào khôn!

Nhớ em anh gửi chút tình
Trăng non chếch bóng dọi hình đôi ta
Chiều chiều đứng mé đường xa
Trông dương nhớ biển, trông hoa nhớ người.

Ngỡ rằng cây cả bóng cao
Thiếp lăn mình vào ẩn nắng che mưa
Ai ngờ cây cả lá thưa
Ẩn nắng nắng hắt, ẩn mưa mưa vào.

Nguồn cơn tôi biết thế này
Thà rằng lấy chú ăn mày cho xong
Ngày ngày vác bị đi rong
Tối về nghỉ mát đình trung sướng đời
Giang sơn bên bị bên nồi
Nào ai vui thú với đời thì đi.

Hôm qua anh đi chợ giời
Thấy ông Nguyệt Lão đang ngồi ở trên
Tay cầm bút, tay cầm nghiên
Tay cầm tờ giấy đang biên rành rành
Biên ta rồi lại biên mình
Biên đây lấy đấy, biên mình lấy ta
Chẳng tin lên hỏi trăng già
Trăng già cũng bảo rằng ta lấy mình
Chẳng tin lên hỏi thiên đình
Thiên đình cũng bảo rằng mình lấy ta
Quyết liều một trận phong ba
Để cho thiên hạ người ta trông vào
Quyết liều một trận mưa rào
Để cho thiên hạ trông vào đôi ta.

Hỡi ai đi ngược về xuôi
Lại đây tôi kể đầu đuôi số mình
Số tôi quyết chí tu hành
Từ ngày bác mẹ bẩm sinh lọt lòng
Ăn chay nằm mộng long đong
Chín chùa tôi chả bỏ không chùa nào
Biết rằng duyên số làm sao
Bao nhiêu gái đẹp thì vào tay tôi
Chín chùa tu thế cả mười
“Đúc chuông tô tượng” xong rồi lại đi
Tôi nay tính khí cũng kỳ
Tuần rằm, mồng một tôi thì bỏ quên
Đêm nằm tưởng gái nằm bên.

Hỡi cô yếm đỏ lòm lòm
Lại đây tôi gả thằng còm cho cô
Thằng còm vừa ốm, vừa ho
Thằng còm chết mất, cô lo một mình.

Hỡi hời ông trời kia ơi!
Sao ông chẳng nhỏ cho tôi tý chồng
Trời rằng: “mày khỏe kén chồng
Mày hay kén chọn, ông không cho mày”.

Hỡi anh đi đường cái quan
Lại đây em thở em than vài lời:
“Anh là quân tử ở đời
Thì anh đừng tưởng những lời nguyệt hoa”.

Hỡi người thục nữ kia ơi!
Năm nay cô đã mấy mươi tuổi đầu?
Cô còn kén chọn vàng thau
Tuổi cô tám mốt lấy đâu là tình.

Khi xưa đằm thắm muôn phần
Bây giờ nhạt như canh cần nấu suông
Khi xưa đằm thắm như hoa
Bây giờ nhạt như rượu pha nước hồ.

– Khoan khoan buông áo em ra
Để em đi bán kẻo hoa em tàn
– Hoa tàn mặc kệ hoa tàn
Mấy thuở gặp nàng nàng biểu buông ra!

Không trơn mà trượt mới tài
Không chồng mà đẻ con trai mới tình
Nâng lên đặt xuống một mình
Than rằng: con ở trong mình mẹ ra
Có con mà chẳng có cha
Lòng mẹ chua xót người ta chê cười
Bởi vì mẹ cợt, mẹ cười
Cho nên mẹ đẻ mẹ nuôi một mình.

Xưa kia ở với mẹ cha
Mẹ cha yêu dấu như hoa trên cành
Từ ngày tôi ở với anh
Anh đánh, anh chửi, anh tình phụ tôi
Đất xấu nặn chả nên nồi
Anh đi lấy vợ cho tôi lấy chồng.

Lấy chồng cho đáng tấm chồng
Bõ công trang điểm má hồng, răng đen
Chẳng tham ruộng cả, ao liền
Tham về cái bút, cái nghiên anh đồ.

Mặc cho ong bướm rộn ràng
Em đây vẫn giữ lòng vàng với anh.

Lấy chồng từ thuở mười lăm
Chồng chê tôi bé chẳng nằm cùng tôi
Đến năm mười tám đôi mươi
Tôi nằm dưới đất chồng lôi lên giường
Một rằng thương, hai rằng thương
Có bốn chân giường gẫy một còn ba
Ai về nhắn với mẹ cha
Chồng tôi nay đã giao hòa cùng tôi.

Mẹ em tham gạo, tham gà
Bắt em để bán cho nhà cao sang
Chồng em thì thấp một gang
Vắt mũi chưa sạch ra đàng đánh nhau
Nghĩ mình càng tủi càng đau
Trách cha trách mẹ tham giầu tham sang.

Miếng trầu là miếng trầu cay
Làm cho bể ái khi đầy khi vơi
Miếng trầu têm để trên cơi
Nắp vàng đậy lại đợi người tri âm
Miếng trầu kèm bức thư cầm
Chờ cho thấy khách tri âm sẽ chào
Miếng trầu têm để trên cao
Chờ cho thấy khách má đào mới cam
Miếng trầu têm để bên nam
Mang sang bên bắc mời chàng hôm nay
Miếng trầu xanh rõ như mây
Hạt cau đỏ ối như dây tơ hồng
Miếng trầu như trúc như thông
Như hoa mới nở, như rồng mới thêu.

Năm canh sáu khắc còn dư
Thương chàng một nỗi tương tư đêm ngày
Năm canh sáu khắc còn chầy
Thương chàng một nỗi mình gầy xác ve.

Ai làm bầu bí đứt dây
Chàng nam thiếp bắc, gió tây lạnh lùng.

Đôi ta đã trót lời thề
Ở đây thì nhớ, ra về thì thương
Ra về lòng những vấn vương
Ái ân ngàn nỗi, nẻo đường chia đôi.

Đôi ta quấn quýt tơ vương
Ai cầm dao cắt đôi đường xa nhau
Đôi ta chung một miếng trầu
Kẻ về người ở dạ sầu tương tư

Đừng chê em xấu em đen
Vốn em ở đất đồng quen ba mùa
Tháng tư cấy trộm tua rua
Tháng sáu cấy mùa, tháng chạp cấy chiêm
Một năm ba vụ cấy liền
Còn gì má phấn, răng đen hỡi chàng!

Em như bức tượng đang tô
Anh như ngòi bút họa đồ trong tranh.

Em như con hạc đầu đình
Muốn bay không nhấc nổi mình mà bay.

Em như tố nữ trong tranh
Anh như ngòi bút chấm cành hoa mai
Tiếc thay mắt phượng mày ngài
Hồng nhan thế vậy nỡ hoài tấm thân.

Em ơi ngoảnh mặt lại đây
Anh nhìn thấy mặt cho khuây tấm lòng.

Em về mua thuốc nhuộm răng
Mua khăn chít lại cho bằng duyên anh.

Em về sắm sọt buôn chè
Để anh mua ấm ngồi kề một bên
Chè ngon sánh với ấm bền
Chè thì một tiền, ấm lại sáu mươi.

Đôi ta như chỉ xe ba
Thầy mẹ xe ít thì ta xe nhiều
Đôi ta như chỉ xe năm
Thầy mẹ xe ít ta cầm ta xe
Đôi ta như chỉ xe mười
Thầy mẹ xe ít mượn người ta xe.

Gặp nhau giữa cánh đồng này
Bốn mắt liếc lại, lông mày đưa ngang
Bây giờ được thở được than
Bắt con chim đậu, bỏ đàn chim bay
Bây giờ anh nắm được tay
Anh yêu vì nết, anh say vì tình.

Gà khôn gà chẳng đá lang
Gái khôn gái chẳng bỏ làng gái đi.

Gái sao chồng chẳng nằm cùng
Mặt giận lùng vùng ném chó xuống ao.

Gần nhà mà chẳng sang chơi
Để em hái ngọn mồng tơi bắc cầu
Bắc cầu anh chẳng đi cầu
Để tốn công thợ, để sầu lòng em.

Gần chùa chẳng được ăn xôi
Gần nàng chẳng được sánh đôi cùng nàng.

Giếng làng em vừa trong vừa mát
Đường làng em lắm cát dễ đi
Em ơi trang điểm làm chi?
Để cho anh phải sớm đi tối về.

Gió sao gió mát sau lưng
Bụng sao bụng nhớ người dưng thế này.

Gió đưa buồng chuối sau hè
Đã lăm le cô chị, lại muốn dò dè cô em.

Gió đưa lắt lẻo cột đình
Anh đen như rứa mà đòi vợ xinh.

Giữa trời cây cả bóng cao
Nhân duyên đã định xe vào cho anh
Trăm năm kết sợi chỉ mành
Ái ân gắn bó chung tình keo sơn.

Giường lèo mà trải chiếu may
Làm trai hai vợ như dây buộc mình.

Từ ngày ta phải lòng mình
Bác mẹ đi rình đã mấy mươi phen
Làm quen chẳng được nên quen
Làm bạn mất bạn ta liền quên nhau.

Hai bên hai dãy hàng hương
Ở giữa hàng nhiễu em thương hàng nào?

Thương em phát dại phát khờ
Đang ăn đũa rớt bao giờ không hay
Cầm kéo quên cắt quên may
Cầm ve quên rượu, cầm khay quên trầu
Cầm đèn quên bấc quên dầu
Cầm trang sách đọc quên đầu quên đuôi
Cầm cân quên giá quên lui
Cầm tiền mà xỉa không biết mấy mươi một tiền
Thương em nhất dại nhì điên.

Hoa sói mà gói xương sông
Thầy mẹ gả phải người chồng bất nhân
Trách trời ăn ở không cân
Để cho hoa sói đứng sân chịu sầu
Trách trời soi xét nơi đâu
Chả soi cảnh thảm cảnh sầu này cho.

Hỡi người đi đường cái đê
Dừng chân đứng lại em đề câu thơ
Xin thơ em cũng cho thơ
Biết rằng có đợi có chờ em chăng?
Anh về có nhớ em chăng?
Em về em nhớ hàm răng mình cười
Năm quan mua lấy miệng cười
Mười quan chẳng tiếc, tiếc người răng đen
Răng đen ai nhuộm cho chàng
Cho răng chàng đẹp, cho tình em say.

Kể từ khi mới gặp nàng
Cũng mong kết ngãi đá vàng Trần Châu
Cũng mong kết chỉ gieo cầu
Cũng mong ta ở với nhau một nhà
Bây giờ bướm lại gần hoa
Xin đừng chớ ngại gần xa mọi đường
Lan phòng muốn sánh thư hương
Phím đàn muốn gảy cung thương mấy vần
Muốn cho vẹn ngãi Tấn Tần
Xin đem bể ái đền ân sau này.

Hỡi ơi chú tiểu trên chùa
Chú tu sao chú bỏ bùa cho tôi.

Lấy anh thì sướng hơn vua
Anh đi xúc giậm được cua kềnh càng
Đem về nấu nấu rang rang
Chồng chan vợ húp lại càng hơn vua.

Mẹ ơi con muốn lấy chồng
Con ơi mẹ cũng một lòng như con
Mẹ ơi con đã có thai
Con ơi mẹ cũng được vài tháng nay
Mẹ ơi con đẻ hôm nay
Con ơi mẹ cũng đẻ ngay bây giờ.

Nân niu cho đáng nâng niu
Cho đáng sức chiều kẻo uổng công anh
Bao giờ cho sóng bỏ gành
Cù lao bỏ biển thì anh bỏ nàng.

Nếu anh có dạ thương em
Xin cho sáu lễ mai đem tới nhà
Thương nhau đâu quản đường xa
Anh nguyền trọn dạ đến nhà hỏi thưa.

Hỡi anh áo trắng quần là
Ước gì xum họp một nhà anh ơi!
Ước gì cơm chung một nồi
Canh chung một bát, cùng ngồi một mâm
Ước gì chung chiếu chung chăn
Chung đũa ta cầm, chung áo, chung da
Chung lâu lại đẻ con ra
Dù trai hay gái đều là con chung
Sáng về ta gửi nhà ông
Tối về ta đón con chung ta về.

Hỡi cô má phấn môi son
Chân đi chữ bát còn toan chê chồng
Chồng cô cao ngỏng cao ngồng
Đến đêm cô với cũng không tới nào.

Hỡi cô yếm thắm lòa lòa
Sao cô không bảo mẹ già nhuộm thâm?
Ước gì anh được ở gần
Để anh nhuộm hộ thấm nhuần công anh.

Cái giường mà biết nói năng
Thằng cha hàng xóm hàm răng chẳng còn
Cái giường mà biết đánh đòn
Thằng cha hàng xóm chẳng còn cái răng

Lấy chồng gặp phải kẻ tồi
cho nên lòng những bồi hồi đắng cay
Cả ngày chỉ rượu với say
Khi nay thuốc phiện, khi mai tài bàn
Nói ra mang tiếng phũ phàng
Nín đi thì não can tràng xiết bao!
Cũng là phận gái má đào
Người thì gặp được anh hào đảm đang
Mình thì cũng dự phấn hương
Gặp nơi lêu lổng chẳng thương chút nào.

Nắm tay em lại hỏi tay
Anh yêu vì nết, anh say vì tình
Càng nhìn càng thắm càng xinh
Bóng trăng là đấy, hữu tình là đây
Biết nhau đã bấy nhiêu ngày
Làm cho ngao ngán kẻo rầy lòng nhau
Yêu nhau gặp hội long vân
Cho quen người lạ, cho gần người ngoan
Dạ anh như đám quân quan
Em như hoa sói trên ngàn dầm sương
Biết rằng anh có lòng thương
Hay là cợt giễu ngoài đường lại thôi?
Người một nơi, tiếng một nơi
Mênh mông nào biết biển trời nơi nao!
Tận từ dám tiếc công nào
Như nung gan sắt, như bào lòng son
Ngày trôi nước chảy đá mòn
Biết bao giờ được chồng con với chàng!

Ngày đi trúc chửa mọc măng
Ngày về trúc đã cao bằng ngọn tre
Ngày đi trúc chửa chia vè
Ngày về lúa đã đỏ hoe đầy đồng
Ngày đi em chửa có chồng
Ngày về em đã con bồng con mang.

Ngày ngày em đứng em trông
Trông non non ngất, trông sông sông dài
Trông mây mây kéo ngang trời
Trông trăng trăng khuyết, trông người người xa.

Ngày ngày ra đứng bờ ao
Trông cá cá lặn, trông sao sao mờ
Trông người người vẫn làm ngơ
Trông sao sao mờ, em biết trông ai!
Răng đen còn có khi phai
Má hồng khi nhạt, tóc dài khi thưa
Ở đây lấy đấy đương vừa
Người còn kén chọn hay lừa nơi nao?

THE END


Leave a comment

Categories